Skip to content

Index

Dược liệu là gì

  • Dược liệu là nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc tự nhiên từ thực vật, động vật, khoáng vật và đạt tiêu chuẩn làm thuốc.

Mục 5, điều 2, Luật dược 2016

  • Dược liệu (bao gồm cả vị thuốc cổ truyền) là nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc từ thực vật, động vật, khoáng vật, nấm và đạt tiêu chuẩn làm thuốc.

Mục 5, điều 2, Luật số: 44/2024/QH15, LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT DƯỢC

  • Bồ Bồ (Thân, Cành Mang Lá Và Hoa)


    Bồ Bồ [Adenosma indianum (Lour.) Merr.], thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Loài cây này phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Á, bao gồm Việt Nam, Ấn Độ, và các nước Đông Nam Á. Trong nhân dân, bồ bồ thường dùng cho phụ nữ sau khi sanh nở để giúp cho ăn ngon cơm, chóng hồi phục cơ thể. Còn dùng làm thuốc chữa sốt, ra mồ hôi, thông tiểu tiện, chữa bệnh vàng da, bệnh gan. Tác dụng dược lý của Bồ Bồ đã được nghiên cứu và cho thấy các tác dụng chính bao gồm kháng khuẩn, chống viêm, tăng tiết mật và giảm tiết dịch vị. Thành phần hóa học chính của Bồ Bồ bao gồm các hợp chất Alkaloids, Flavonoids, Triterpenoids, Hợp chất phenolic, Saponin, với khả năng kháng khuẩn và chống viêm mạnh mẽ.

    Bồ Bồ (Thân, Cành Mang Lá Và Hoa)

  • Kinh Giới (Thân Cây Trên Mặt Đất)


    Kinh giới (Herba Elsholtziae) là toàn cây trên mặt đất của cây kinh giới (Elsholtzia ciliata (Thunb.) Hyland), thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Kinh giới phân bố chủ yếu ở châu Á, bao gồm khu vực bán đảo Malaysia và vùng ôn đới châu Á. Ở Việt Nam, cây được trồng khắp nơi, đặc biệt tại các tỉnh như Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoà Bình, Hà Nội, Ninh Bình và các tỉnh phía Nam. Theo tài liệu cổ, kinh giới có vị cay, tính ấm, quy vào kinh phế và can, được dùng để chữa cảm mạo, phát sốt, nhức đầu, cổ họng sưng đau, nôn mửa, chảy máu cam, đi lỵ ra máu, và băng huyết. Kinh giới có tác dụng dược lý kháng khuẩn, chống viêm, chống oxy hóa, giảm căng thẳng, an thần, và hỗ trợ tiêu hóa. Kinh giới chứa các thành phần hóa học quan trọng như tinh dầu giàu phytosterol (stigmast-5-en-3-ol), flavonoid (luteolin), và terpenoid (terpineol, limonene, alpha-pinene, humulene, camphor, sabinene).

    Kinh Giới (Thân Cây Trên Mặt Đất)

  • Thạch Xương Bồ (Thân Rễ)


    Xương bồ là thân rễ đã phơi khô, hoặc sấy khô của cây Thạch xương bồ lá to (Acorus gramineus Soland. var. macrospadiceus Yamamoto Contr) và cây Thủy Xương bồ (Acorus calamus L. var. angustatus Bess.), họ Ráy (Araceae). Cây phân bố chủ yếu ở vùng có khí hậu nhiệt đới như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanca, các nước ở bán đảo Đông Dương và vùng Đông - Nam Á (Thái Lan, Malaysia…). Tại Việt Nam, cây mọc hoang tại những vùng núi miền Bắc và Trung nước ta, thường ở những nơi khe đá, khe suối, chỗ mát. Trong dân gian, dùng để chữa chữa tai ù, hay quên, hay mệt mỏi, mụn nhọt, hậu bối, chữa đau dạ dày, chữa ho lâu ngày, chữa cảm lạnh, cấm khẩu, loạn nhịp tim, chân tay nhức mỏi, đầy bụng, ỉa chảy, chữa các chứng phong cấm khẩu bại hết nửa người, trị trẻ em kinh giản. Xương bồ có tác dụng dược lý là: xúc tiến sự phân tiết các dịch tiêu hoá và hạn chế sự lên men không bình thường của dạ dày và ruột, xương bồ còn làm bớt sự căng thẳng của cơ trơn trong ruột, kích thích đối với da, do đó có thể tăng cường máu chạy mạnh hơn tại một nơi nào trên cơ thể; điều hoà nhịp tim trong các trường hợp: nhịp xoang nhanh, nhịp đã hiệp xoang nút, ngoại tâm thu thành chuỗi; ức chế tụ cầu vàng kháng nhiều thuốc. Thành phần hoá học: Có chừng 0,5-0,8% tinh dầu, trong tinh dầu có chừng 86% Asaron. Ngoài ra còn có một chất phenol và axit béo. Ở Việt Nam, thạch xương bồ lá nhỡ chứa 0,34-0,41% tinh dầu, trong đó có myreen, camphor, methyl eugenol, asaron và shybunon. Thạch xương bồ lá to 1-2% tinh dầu, trong đó có camphen, asaron và shybunon.

    Thạch Xương Bồ (Thân Rễ)

  • Vọng Cách (Lá)


    Lá Vọng cách (lá) (Folium premnae corymbosae) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Vọng cách [Premnae corymbosae (Burm.f.) Rottl. et Willd.], họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây phân bố rộng rãi tại Việt Nam và nhiều nước châu Á, châu Úc. Lá có vị đắng nhẹ, tính mát, quy vào kinh Tâm, Can, Tỳ, với công năng thanh tràng chỉ lỵ, lợi niệu. Cây được dùng để chữa lỵ ra máu, đau dạ dày, tiêu hóa kém, ít sữa sau sinh, viêm gan, vàng da và sốt,, làm giảm sức cơ tim, giãn mạch và đồng tử. Trong lá có chứa tinh dầu.

    Vọng Cách (Lá)

  • Actisô (Lá)


    Actisô (Folium Cynarae scolymi) là lá phơi hoặc sấy khô của cây Actisô (Cynara scolymus L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Loài cây này có nguồn gốc từ khu vực Địa Trung Hải và hiện được trồng phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt ở các vùng có khí hậu mát mẻ như Đà Lạt, Sapa và Tam Đảo. Trong y học cổ truyền, lá actisô có vị đắng, tính mát, thường được sử dụng để lợi mật, mát gan, thông tiểu, và điều trị các triệu chứng như đầy bụng, khó tiêu, vàng da, và táo bón. Nhiều nghiên cứu hiện đại đã xác nhận tác dụng dược lý của actisô, bao gồm khả năng bảo vệ gan, giảm cholesterol, hạ đường huyết, chống oxy hóa, và kháng viêm. Thành phần hóa học chính trong lá actisô bao gồm acid chlorogenic, acid caffeic, và một số hợp chất phenolic khác.

    Actisô (Lá)

  • Ba Kích (Rễ)


    Cây Ba kích có tên khoa học là Gynochthodes officinalis (F.C.How) thuộc họ Rubiaceae (Cà phê). Cây có nguồn gốc từ Đông Nam Trung Quốc, Hải Nam. Tại Việt Nam cây ba kích mọc hoang ở ven rừng, trên đồi rậm giữa các bụi bờ, bãi hoang nhiều nhất ở Quảng Ninh (Hải Ninh, Hồng Quảng), Hà Tây, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang. Cây ba kích được cộng đồng người Sán Dìu sử dụng làm thuốc bổ, mạnh gân cốt, chữa tiêu chảy, liệt dương. Nước sắc ba kích có tác dụng làm tăng sự co bóp của ruột và giảm huyết áp, không có độc. Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axit hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo các tài liệu cũ, chỉ có vitamin C, nhưng ba kích khô không có vitamin C.

    Ba Kích (Rễ)

  • Bá Tử Nhân


    Là hạt trong “nón cái” già (còn gọi là “quả”) được phơi hay sấy khô của cây Trắc bá [Platycladus orientalis (L.) Franco], họ Hoàng đàn (Cupressaceac). Chi Platycladus Spach phân bố từ Bắc Mỹ tới Đông Bắc Á. Ở Việt Nam có 1 loài là trắc bá. Trắc bá diệp chữa ho ra máu, đại tiểu tiện ra máu, chảy máu cam, xuất huyết tử cung, rong kinh, thuốc lợi tiểu, chữa ho, sốt. Bá tử nhân dùng chữa hồi hộp, mất ngủ, hay quên, người yếu ra nhiều mồ hôi, táo bón, trẻ con khóc đêm, bụng đầy, đi ngoài phân xanh. Lá có chứa flavonoid (rutin, quercitrin, quercetin, amentoflavon), tinh dầu (chủ yếu α-pinen, α-cedrol, limonen, α-terpinolen, caryophyllen,…). Hạt có chất béo và saponin.

    Bá Tử Nhân

  • Bạc Hà


    Bạc hà có tên khoa học là Mentha arvensis L., thuộc họ Lamiaceae (Hoa môi). Cây bạc hà mọc hoang và được trồng tại nhiều vùng ở nước ta, mọc hoang cả ở miền đông bằng cất và ở miền núi. Chúng tôi đã phát hiện mọc hoang nhiều ở Sapa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), Bắc Cạn, Sơn La. Thường được sử dụng trong Sơ phong thanh nhiệt, thấu chẩn, sơ can giải uất. Chủ trị: Cảm mạo phong nhiệt, đau đầu, đau mắt đỏ; thúc đẩy sởi, đậu mọc; can uất ngực sườn căng tức. Bạc hà có tác dụng gây cảm giác mát và tê tại chỗ, dùng trong một số trường hợp đau dây thần kinh, còn có tác dụng sát trùng mạnh thường dùng trong một số trường hợp ngứa của một số bệnh ngoài da, bệnh về tai mũi họng. Tuy nhiên cần biết rằng tinh dầu bạc hà và mentola bởi mũi hay bối trong cổ họng có thể gây hiện tượng ức chế có thể tới ngừng thở và tim ngừng đập hoàn toàn. Hoạt chất chủ yếu trong bạc hà là tinh dầu bạc hà. Ngoài tinh dầu, trong cây bạc hà còn có các flavonozit.

    Bạc Hà

  • Bạc Hà


    Bạc hà (Herba Menthae) là bộ phận trên mặt đất của cây Bạc hà (Mentha arvensis L.), thuộc họ Bạc hà (Lamiaceae). Bạc hà phân bố chủ yếu ở khu vực Á Âu. Ở Việt Nạm, bạc hà mọc hoang tại nhiều nơi như Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì, Bắc Kạn và Sơn La. Theo y học cổ truyền, bạc hà được sử dụng để tạo cảm giác mát, gây tê tại chỗ, sát trùng mạnh, hỗ trợ hạ nhiệt cơ thể và làm ra mồ hôi. Bạc hà chứa nhiều thành phần hóa học, trong đó hoạt chất chủ yếu là tinh dầu bạc hà với tỉ lệ 0,5-1%. Thành phần chính của tinh dầu bao gồm menthol (40-50%), tồn tại ở trạng thái tự do và một phần kết hợp với axit axetic và các hợp chất flavonoid.

    Bạc Hà

  • Bách Bệnh (Rễ)


    Cây Bách bệnh có tên khoa học là Eurycoma longifolia Jack, thuộc họ Thanh thất (Simaroubaceae). Cây phân bố phổ biến ở khắp Việt Nam nhưng phổ biến nhất ở miền Trung. Ngoài ra, cây còn phân bố ở vùng khác như Borneo, Campuchia, Lào, Malaya, Myanmar, Philippines, Sumatera, Thái Lan. Trong Y học cổ truyền, dược liệu có tác dụng bổ khí huyết, ôn tỳ thận, được dùng trong các trường hợp khí huyết lưỡng hư, cơ thể yếu mệt, thiếu máu, ăn uống kém, khó tiêu, các bệnh tả, lỵ, các trường hợp sinh dục yếu, dương suy, tảo tiết; bên cạnh đó, còn dùng để chữa cảm mạo, phát sốt, sốt rét, giải độc rượu, tẩy giun. Thành phần hóa học của dược liệu bao gồm canthin-6-one alkaloid, β-carboline alkaloid, quassinoid, quassinoid diterpenoid, Eurycomaoside, tirucallane-type triterpene, dẫn xuất squalene, biphenylneolignan, eurycolactone, laurycolactone, và eurycomalactone. Các tác dụng dược lý của dược liệu từ đó được nghiên cứu chứng minh bao gồm chống sốt rét, chống ung thư, chống đái tháo đường, chống viêm, kích thích tình dục, kháng khuẩn, giải lo âu.

    Bách Bệnh (Rễ)

  • Bách Bộ (Rễ)


    Cây Bách bộ có tên khoa học là Stemona tuberosa Lour., thuộc họ Bách bộ (Stemonaceae). Cây mọc hoang ở khắp nơi trong Việt Nam tại Hà Tây, Hòa Bình, Bắc Kạn, Thái Nguyên,... Ngoài ra, cây còn phân bố ở vùng khác như Assam, Bangladesh, Campuchia, Nam Trung Trung Quốc, Đông Nam Trung Quốc, Hainan, Ấn Độ, Lào, Lesser Sunda Is., Maluku, Myanmar, New Guinea, Philippines, Sri Lanka, Đài Loan, Thái Lan. Trong Y học cổ truyền, dược liệu có tác dụng ôn phế, nhuận phế, chỉ ho, sát trùng, được dùng trong các trường hợp ho mới hoặc ho lâu ngày, ho gà, ho lao, viêm phế quản mạn tính; bên cạnh đó, còn được dùng ngoài để trị chấy, rận, ghẻ lở, giun kim, ngứa âm hộ. Thành phần hóa học của dược liệu bao gồm pyridoazepine alkaloid, pyrroloazepine alkaloid, stilbenoid. Các tác dụng dược lý của dược liệu từ đó được nghiên cứu chứng minh bao gồm chống viêm, chống ho, chống ung thư, kháng khuẩn, kháng virus, chống oxy hóa, diệt côn trùng.

    Bách Bộ (Rễ)

  • Bạch Cập (Thân Rễ)


    Bạch cập có tên khoa học là Bletilla striata (Thunb.) Reichb. f, thuộc họ Orchidaceae - Lan. Theo các nhà thực vật hiện nay đã thay đổi tên khoa học mới thành Bletilla formosana (Hayata) Schltr. Cây được phân bố ở China North-Central, China South-Central, China Southeast, Japan, Korea, Myanmar, Nansei-shoto; Taiwan, Tibet. Còn tại Việt Nam mọc hoang dại ở nhiều vùng cao mát ở nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang… Trong y học dân gian thì cây được sử dụng điều trị một số triệu chứng và bệnh như là thu liễm chỉ huyết, sinh cơ tiêu sưng. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra thành phần hóa học trong cây chứa tinh dầu, tinh bột 30,48% trong củ tươi và chất nhầy. Chất nhầy là polysaccarid (bletilamanan) bao gồm manose và glucose theo tỷ lệ 4:1. Ngoài ra, còn có batatasin và methylbatatasin, glycogen. Và hoạt chất là biomaker đặc trưng cho cây là Biphenanthren. Về tác dụng dược lý, biphenanthren phân lập được từ cây có tác dụng kháng khuẩn trên một số vi khuẩn gây bệnh thông thường, xuất huyết đường tiêu hóa. Chất nhầy (polysaccharides) trong cây có khả năng tạo màng bảo vệ tại vết thương và kích thích đông máu nên có tác dụng cầm máu, bảo vệ dạ dày. Polysaccharides kích thích tái tạo mô và thúc đẩy quá trình lành vết thương. .

    Bạch Cập (Thân Rễ)

  • Bạch Đồng Nữ (Cành Mang Lá)


    Cây bạch đồng nữ var. simplex (Mold.) s. L. Chen), họ Verbenaceae (Cỏ roi ngựa). Cây mọc ở nhiều tỉnh miền nam Trung Quốc, Phipipin, Indonexia, ở Việt Nam, cây mọc hoang khắp nơi, miền núi cũng như đồng bằng. Trong nhân dân, lá bạch đồng nữ hay mò trắng nói trên thường chỉ hay dùng ngoài; không kể liều lượng người ta hái lá tươi về vò nát hay giã nát lấy nước hoặc sắc lấy nước dùng tắm ghẻ, mụn nhọt hay rửa chốc đầu. Dựa vào kinh nghiệm, người dân thường dùng lá bạch đồng nữ để sắc uống chữa bệnh khí hư, bạch đới với liều 15-20g lá khô, thêm nước vào đun sôi giữ sôi trong nửa giờ lấy ra uống, thường dùng phối hợp vị này với ích mẫu, hương phụ với ngải cứu. Cây có tác dụng hạ huyết áp do dãn mạch ngoại vi và lợi tiểu. Cây có thành phần hóa học thuộc nhóm alkaloid, steroid, flavonoid, triterpenoid, saponin, tanin và quinon.

    Bạch Đồng Nữ (Cành Mang Lá)

  • Bạch Giới Tử


    Bạch giới tử (Semen Sinapis albae) là hạt của quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Cải trắng (Sinapis alba L.), họ Cải (Brassicaccae). Cây được trồng ở nước ta để lấy rau ăn, hiện nay ta chưa thu hoạch hạt để dùng làm thuốc hoặc ép dầu, cho đến nay ta vẫn còn phải nhập giới tử của Trung Quốc. Nhân dân sử dụng giới tử làm thuốc chữa ho, viêm khí quản, ra mồ hôi, dùng ngoài dưới dạng cao dán để gây đỏ da và kích thích da tại chỗ, trị đau dây thần kinh, dùng lâu ngày có thể gây da mọng nước. Ngày uống 3-6g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột. Dược liệu có tác dụng dược lý là giảm dị ứng đường thở và ức chế ho. Dược liệu có thành phần hóa học thuộc nhóm sinapine, sinalbin, myrosin,... Tên hoạt chất là sinapine cyanide sulfonate.

    Bạch Giới Tử

  • Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo (Toàn Cây)


    Bạch hoa xà thiệt thảo (Hedyotis diffusa Willd., họ Rubiaceae) là dược liệu phân bố chủ yếu ở châu Á, bao gồm Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á. Ở Việt Nam, cây mọc tự nhiên tại nhiều nơi. Trong y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, tiêu ung, và tán kết, chủ trị các bệnh như ho, viêm họng, mụn nhọt, ung bướu, và viêm gan cấp tính. Các nghiên cứu hiện đại ghi nhận tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn, chống virus, chống ung thư và chống oxy hóa. Thành phần hóa học chính gồm triterpenoid (acid oleanolic, acid ursolic), flavonoid và acid hữu cơ. Acid oleanolic và acid ursolic là các hoạt chất được chọn làm biomarker trong Dược điển Việt Nam và Hồng Kông.

    Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo (Toàn Cây)

  • Bách Hợp (Thân Hành)


    Bách hợp có tên khoa học là Lilium brownii F.E.Brown var. viridulum Baker hoặc Lilium pumilum DC, thuộc họ Liliaceae - Hoa loa kèn. Ngoài ra, theo các nhà thực vật hiện nay còn bổ sung, thay đổi một số tên khoa học mới như Lilium japonicum var. japonicum; Lilium brownii brevifolium T.S.Ware ex Rob; Lilium ukeyuri Veitch ex R.Hogg. Cây được phân bố ở châu Á. Tại Việt Nam cây được phát hiện ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Tây Bắc, mọc hoang trên các đồi cọ Sapa (Lào Cai). Trong y học dân gian thì cây được sử dụng điều trị một số triệu chứng và bệnh liên quan đến tác dụng như là dưỡng âm, nhuận phế, thanh tâm, an thần. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra thành phần hóa học trong đó có các nhóm terpenoid, alkaloids. Ngoài ra còn có các thành phần hóa học sau: cumaroyl-glycerol, adenosin, methyl- apha- D manopyranosid, regalosid, tenuifoliosid, cumaryl-1-2 propanedicarboxylic, lilinosid. Về tác dụng dược lý, dùng cho các vết bầm tím, vết thương; thuốc trị đầy hơi, ho, lợi tiểu, chàm, sốt, phổi, bệnh thần kinh, đau nhức, sưng tấy, thuốc bổ. Polysaccharides tác dụng an thần và giảm lo âu; bổ phổi, giảm ho. Vitamin C trong bách hợp có khả năng trung hòa các gốc tự do, bảo vệ tế bào khỏi tổn thương vì vậy là chất chống oxy hóa. Chất nhầy và polysaccharides giúp bảo vệ mô và thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào từ đó hỗ trợ làm lành vết thương.

    Bách Hợp (Thân Hành)

  • Bạch Tật Lê (Quả)


    Bạch tật lê (Quả) (Fructus Tribuli terrestris) là quả chín phơi khô của cây Bạch tật lê {Tribulus terrestris L.), họ Tật lê (Zygophyllaceae). Cây mọc hoang ở ven biển, ven sông các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và các tỉnh miền Nam nước ta. Quả bạch tật lê có tính tân, khổ, vi ôn, hơi độc, vào kinh can, phế. Dược liệu dùng tri nhức đầu, chóng mặt; ngực sườn đau trướng, tắc sữa, viêm (nhọt) vú; đau mắt đỏ kéo màng mắt; phong chẩn, ngứa.. Thành phần hóa học chính của quả bạch tât lê gồm có saponin steroid (protodioscin là marker trong Dược điển Hồng Kông và Trung Quốc), flavonoid, alkaloid, axit phenolic, tanin.

    Bạch Tật Lê (Quả)

  • Bạch Thược (Rễ)


    Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall.), thuộc họ Paeoniaceae (họ Mẫu đơn), là dược liệu quý trong y học cổ truyền. Phân bố chủ yếu ở các vùng bản địa như Amur, Mãn Châu, Nội Mông, và được di thực vào các quốc gia như Anh, Hàn Quốc và Mỹ. Tại Việt Nam, dược liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, với một số vùng đã trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai) từ năm 1960. Trong y học cổ truyền, bạch thược được sử dụng để bổ huyết, dưỡng âm, thư cân, bình can và chỉ thống. Dược liệu này chủ trị các bệnh như huyết hư, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm, đau bụng, đau đầu và co rút chân tay. Về thành phần hóa học, bạch thược chứa các glycosides như paeoniflorin (biomarker), albiflorin, polyphenols, tannin, saponin và flavonoid, với paeoniflorin là tiêu chuẩn định lượng trong nhiều dược điển quốc tế. Tác dụng dược lý của bạch thược bao gồm kháng viêm, giảm đau, an thần, trừ đờm và tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi trùng. Dược liệu này được ứng dụng rộng rãi trong các bài thuốc truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhiều nhu cầu điều trị bệnh lý về khí huyết, đau nhức và rối loạn kinh nguyệt.

    Bạch Thược (Rễ)

  • Bạch Thược (Rễ)


    Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall.), thuộc họ Paeoniaceae (họ Mẫu đơn), là dược liệu quý trong y học cổ truyền. Phân bố chủ yếu ở các vùng bản địa như Amur, Mãn Châu, Nội Mông, và được di thực vào các quốc gia như Anh, Hàn Quốc và Mỹ. Tại Việt Nam, dược liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, với một số vùng đã trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai) từ năm 1960. Trong y học cổ truyền, bạch thược được sử dụng để bổ huyết, dưỡng âm, thư cân, bình can và chỉ thống. Dược liệu này chủ trị các bệnh như huyết hư, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm, đau bụng, đau đầu và co rút chân tay. Về thành phần hóa học, bạch thược chứa các glycosides như paeoniflorin (biomarker), albiflorin, polyphenols, tannin, saponin và flavonoid, với paeoniflorin là tiêu chuẩn định lượng trong nhiều dược điển quốc tế. Tác dụng dược lý của bạch thược bao gồm kháng viêm, giảm đau, an thần, trừ đờm và tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi trùng. Dược liệu này được ứng dụng rộng rãi trong các bài thuốc truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhiều nhu cầu điều trị bệnh lý về khí huyết, đau nhức và rối loạn kinh nguyệt.

    Bạch Thược (Rễ)

  • Bạch Thược (Rễ)


    Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall.), thuộc họ Paeoniaceae (họ Mẫu đơn), là dược liệu quý trong y học cổ truyền. Phân bố chủ yếu ở các vùng bản địa như Amur, Mãn Châu, Nội Mông, và được di thực vào các quốc gia như Anh, Hàn Quốc và Mỹ. Tại Việt Nam, dược liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, với một số vùng đã trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai) từ năm 1960. Trong y học cổ truyền, bạch thược được sử dụng để bổ huyết, dưỡng âm, thư cân, bình can và chỉ thống. Dược liệu này chủ trị các bệnh như huyết hư, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm, đau bụng, đau đầu và co rút chân tay. Về thành phần hóa học, bạch thược chứa các glycosides như paeoniflorin (biomarker), albiflorin, polyphenols, tannin, saponin và flavonoid, với paeoniflorin là tiêu chuẩn định lượng trong nhiều dược điển quốc tế. Tác dụng dược lý của bạch thược bao gồm kháng viêm, giảm đau, an thần, trừ đờm và tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi trùng. Dược liệu này được ứng dụng rộng rãi trong các bài thuốc truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhiều nhu cầu điều trị bệnh lý về khí huyết, đau nhức và rối loạn kinh nguyệt.

    Bạch Thược (Rễ)

  • Bạch Thược (Rễ)


    Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall.), thuộc họ Paeoniaceae (họ Mẫu đơn), là dược liệu quý trong y học cổ truyền. Phân bố chủ yếu ở các vùng bản địa như Amur, Mãn Châu, Nội Mông, và được di thực vào các quốc gia như Anh, Hàn Quốc và Mỹ. Tại Việt Nam, dược liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, với một số vùng đã trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai) từ năm 1960. Trong y học cổ truyền, bạch thược được sử dụng để bổ huyết, dưỡng âm, thư cân, bình can và chỉ thống. Dược liệu này chủ trị các bệnh như huyết hư, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm, đau bụng, đau đầu và co rút chân tay. Về thành phần hóa học, bạch thược chứa các glycosides như paeoniflorin (biomarker), albiflorin, polyphenols, tannin, saponin và flavonoid, với paeoniflorin là tiêu chuẩn định lượng trong nhiều dược điển quốc tế. Tác dụng dược lý của bạch thược bao gồm kháng viêm, giảm đau, an thần, trừ đờm và tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi trùng. Dược liệu này được ứng dụng rộng rãi trong các bài thuốc truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhiều nhu cầu điều trị bệnh lý về khí huyết, đau nhức và rối loạn kinh nguyệt.

    Bạch Thược (Rễ)

  • Bạch Thược (Rễ)


    Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall.), thuộc họ Paeoniaceae (họ Mẫu đơn), là dược liệu quý trong y học cổ truyền. Phân bố chủ yếu ở các vùng bản địa như Amur, Mãn Châu, Nội Mông, và được di thực vào các quốc gia như Anh, Hàn Quốc và Mỹ. Tại Việt Nam, dược liệu này chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc, với một số vùng đã trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai) từ năm 1960. Trong y học cổ truyền, bạch thược được sử dụng để bổ huyết, dưỡng âm, thư cân, bình can và chỉ thống. Dược liệu này chủ trị các bệnh như huyết hư, kinh nguyệt không đều, mồ hôi trộm, đau bụng, đau đầu và co rút chân tay. Về thành phần hóa học, bạch thược chứa các glycosides như paeoniflorin (biomarker), albiflorin, polyphenols, tannin, saponin và flavonoid, với paeoniflorin là tiêu chuẩn định lượng trong nhiều dược điển quốc tế. Tác dụng dược lý của bạch thược bao gồm kháng viêm, giảm đau, an thần, trừ đờm và tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều loại vi trùng. Dược liệu này được ứng dụng rộng rãi trong các bài thuốc truyền thống và hiện đại, đáp ứng nhiều nhu cầu điều trị bệnh lý về khí huyết, đau nhức và rối loạn kinh nguyệt.

    Bạch Thược (Rễ)

  • Bạch Truật (Thân Rễ)


    Bạch truật (Atractylodes macrocephala Koidz. - họ Asteraceae) là một vị thuốc Đông y quan trọng. Phân bố chủ yếu tại Trung Quốc, bộ phận dùng chính là thân rễ. Thành phần hóa học chính gồm các sesquiterpenoids như Atractylenolide I, II, III. Dược liệu này có tác dụng kiện tỳ, bổ khí, chống viêm, và tăng cường hệ miễn dịch. Với tính vị ngọt, hơi đắng, tính ấm, quy kinh tỳ và vị, bạch truật được sử dụng để kiện tỳ, bổ khí, táo thấp, lợi thủy và chỉ hãn. Dân gian thường dùng bạch truật để hỗ trợ tiêu hóa, điều trị suy nhược cơ thể, đầy bụng, tiêu chảy kéo dài, và phù thũng. Trong y học cổ truyền, bạch truật là thành phần chính trong các bài thuốc như "Tứ quân tử thang" và "Lục quân tử thang" nhằm bổ khí, kiện tỳ và điều trị rối loạn tiêu hóa. Dược liệu này được sắc uống hoặc tán bột, sử dụng phổ biến trong điều trị các bệnh lý liên quan đến khí huyết và tiêu hóa.

    Bạch Truật (Thân Rễ)

  • Bán Biên Liên (Toàn Cây Phơi Hoặc Sấy Khô)


    Dược liệu bán biên liên (Herba Lobeliae chinensis) là toàn cây phơi hoặc sấy khô của cây bán biên liên (Lobelia chinensis Lour.), thuộc họ hoa chuông (Campanunlaceae ). Theo “Từ điển cây thuốc Việt Nam” - Võ Văn Chi, cây bán biên liên là cây thân thảo mọc hàng năm; thân nhẵn, có 3 góc, mọc thẳng hướng lên trên hoặc mọc nằm, có khi đâm rễ, đơn hoặc phân nhánh, dài 5-15cm. Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Nhật Bản,Hàn Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Còn tại Việt Nam, cây có ở Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Bình Dương. Các thành phần hóa học được xác định trong cây thuộc các nhóm: alkaloid piperidine, Flavonoid (apigenin 7-O-rutinoside; rutin; hesperidin; hesperetin;...), Terpenoid (daucosterol; stigmasterol;...), Polyacetylen, Neolignan, Coumarin (scoparone; isoscopoletin;...), 1 số acid béo (Palmitic acid; Lacceroic acid; Stearic acid),... Theo dược điển Hong Kong, hoạt chất dùng làm biomaker là diosmin và linarin. Bán biên liên có tác dụng dược lý là: Chống viêm, Chống khối u, Điều hòa miễn dịch và ức chế alpha - glucosidase, Kháng khuẩn và bảo vệ thần kinh .

    Bán Biên Liên (Toàn Cây Phơi Hoặc Sấy Khô)

  • Bán Chi Liên (Phơi Hoặc Sấy Khô Toàn Cây)


    Dược liệu bán chi liên (Herba Scutellariae barbatae) là toàn cây phơi khô hoặc sấy của cây bán chi liên (Scutellaria barbata D. Don), thuộc họ bạc hà (Lamiaceae). Cây được mô tả trong "Từ điển cây thuốc Việt Nam" - Võ Văn Chi, bán chi liên là cây thân thảo mọc đứng hay bò, cao 0,2-0,5m. Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Nhật Bản,Hàn Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Còn tại Việt Nam, Bán chi liên phân bố ở Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nội, Hòa Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Trị. Các chất hóa học được phân lập trong cây thuộc các nhóm: Flavonoid (scutellarein; scutellarin; carthamidin; isocarthamidin;...), Diterpenoid (barbatin; scutebarbatin; scutelinquanin;...), Polysaccharide (Rhamnose; Arabinose; Xylose; Mannose; Galactose; Glucose), tinh dầu,... Theo dược điển Hồng Kông, biomaker là hoạt chất: Scutellarin. Bán chi liên có tác dụng dược lý: Bảo vệ tim mạch, Chống khối u, Kháng khuẩn và kháng virus, Chống viêm và chống oxy hóa.

    Bán Chi Liên (Phơi Hoặc Sấy Khô Toàn Cây)

  • Bán Hạ


    Bán hạ (Thân rễ) (Rhizoma Pinelliae) là thân rễ của cây Bán hạ, thuộc họ Ráy (Araceae). Cây phân bố ở các vùng đất ẩm tại Việt Nam từ Bắc vào Nam, và trên thế giới tại Trung Quốc, Ấn Độ, và Nhật Bản. Theo kinh nghiệm dân gian, Bán hạ có tác dụng giáng nghịch cầm nôn, tiêu đờm hóa thấp, tán kết tiêu bĩ. Bán hạ thường được dùng để chủ trị các chứng ho có đờm, nôn mửa, chóng mặt, đau đầu do đờm thấp, đờm hạch, và các trường hợp đờm kết với khí gây mai hạch khí.Tác dụng dược lý của Bán hạ bao gồm tác dụng chữa ho, chống nôn, và hỗ trợ làm tiêu đờm. Thành phần hóa học của Bán hạ bao gồm một ít tinh dầu, alkaloid, một ancol, chất cay, phytosterol, cùng với dầu béo, tinh bột và chất nhầy, mang lại hiệu quả trong điều trị các bệnh liên quan đến hô hấp và tiêu hóa.

    Bán Hạ

  • Bán Hạ Nam


    Củ Chóc (Rhizoma Typhonii trilobati), là một dược liệu từ thân rễ của cây Typhonium trilobatum, thuộc họ Ráy (Araceae). Cây được tìm thấy nhiều ở Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào và mọc hoang tại Việt Nam, nhất là những vùng đất ẩm. Theo y học cổ truyền, dược liệu này có tính cay, ôn, quy vào kinh Tỳ, Vị, Phế, thường được dùng để hóa đàm, táo thấp, giáng khí, chỉ ho và chống nôn. Kinh nghiệm dân gian sử dụng củ chóc để trị ho nhiều đờm, nôn mửa, đầy chướng bụng và giảm thấp trệ ở người béo phì. Thành phần hóa học của củ chóc bao gồm 69,9% nước, 1,4% protein, 0,1% chất béo, 1% chất sợi, 26% carbohydrate, cùng các khoáng chất như kali (237 mg%), phosphor, sắt và natri. Các nghiên cứu cho thấy dược liệu có tác dụng chữa ho và chống nôn hiệu quả, góp phần hỗ trợ sức khỏe hệ hô hấp và tiêu hóa.

    Bán Hạ Nam

  • Bìm Bìm Biếc (Hạt)


    Bìm bìm biếc (hay còn gọi là khiên ngưu) có tên khoa học là Pharbitis nil (L.) Choisy, thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Cây bìm bìm biếc mọc hoang ở nhiều tỉnh nước ta, ngoài ra còn mọc ở Ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Nhật Bản, Philipin, Trung Quốc. Trong đông y, khiên ngưu có tác dụng tả khí phận thấp nhiệt, trục đờm, tiêu ẩm lợi nhị tiện là thuốc chữa tiện bĩ và cước khí, chủ trị hạ khí, lợi tiểu tiện chữa cước thũng (phù), sát trùng. Tác dụng dược lý là tẩy mạnh, tăng sức co bóp của ruột. Thành phần hóa học gồm alkaloid, glycosid và chất béo.

    Bìm Bìm Biếc (Hạt)

  • Bình Vôi(Củ)


    Bình vôi [Stephania glabra (Roxb.) Miers] là một cây thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Phân bố chủ yếu ở những vùng núi đá tại các tỉnh Hà Tây, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình,.... Trong nhân dân, củ bình vôi thái nhỏ, phơi khô được dùng dưới dạng sắc, ngâm rượu chữa hen, ho lao, lỵ, sốt, đau bụng, ngày uống 3 đến 6g. Có thể tán bột, ngâm rượu 40 độ với tỷ lệ 1 phần bột 5 phần rượu, rồi uống với liều 5 đến 15ml rượu một ngày. Có thể thêm đường cho dễ uống. Tác dụng dược lý có điều hòa tim, điều hòa hô hấp, an thần gây ngủ. Thành phần hóa học bao gồm alkaloid, glycosid,...

    Bình Vôi(Củ)

  • Bồ Công Anh (Lá, Toàn Cây Trừ Rễ)


    Bồ Công Anh (Lactuca indica L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae), là loài cây mọc hoang và được trồng rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và ôn đới, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trong y học cổ truyền, Bồ công anh được nhân dân sử dụng để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu, chữa bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu. Theo sự nghiên cứu của nước ngoài, cây có tính chất gây ngủ nhẹ (chất nhựa mủ phơi khô đen lại dùng làm thuốc chữa ho trẻ con và dùng chữa cho trẻ con mất ngủ). Thành phần hóa học của Lactuca indica bao gồm các hợp chất hoạt tính như alkaloid, flavonoid, terpenoid, saponin, trong đó đặc biệt là luteolin˗7˗O˗β˗D˗glucoside, một hợp chất có tác dụng chống viêm mạnh.

    Bồ Công Anh (Lá, Toàn Cây Trừ Rễ)

  • Bổ Cốt Chỉ (Quả)


    Bổ cốt chi tên khoa học là Cullen corylifolium (L) thuộc họ Đậu (Fabaceae) phân bố ở khu vực nhiệt đới khu vực Nam Á, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Sri Lanka, Maldives và một phần của Myanmar, có cả Việt Nam. Loại cây mọc hoang ở một số vùng miền núi. Làng Nghĩa trai (Hải hưng) có trồng để thu hoạch dược liệu. Từ lâu, loại dược liệu này đã được sử dụng trong y học dân gian để điều trị nhiều bệnh: đi đái nhiều, tính khí không kiên định; chữa ho lao; trị bạch biến, hói trán … Với thành phần 20% chất dầu, 1 ít tinh dầu trong đó có psoralen, isopsoralen, ankaloid, glucozit và 9,2% chất nhựa .Rễ chứa các dẫn chất anthranoid ở dạng tự do và dạng kết hợp glycosid hàm lượng 0,1 - 0,5%.Chrysophanol, emodin, physcion, emodin 8 - p - glucosid; Dẫn chất anthranoid: có polydatin là một stilben glucosid khi thủy phân cho resveratrol; Tanin. Trong lá có các flavonoid: quercetin, isoquercetin, reynoutrin, avicularin, hyperin. Chúng đem lại các tác dụng dược lý như: Nhuận tẩy; Hạ đường huyết, cholesterol; Kháng khuẩn trên một loại vi khuẩn như Staphylococcus aureus, E.coli, Mycobacterium tuberculosis.

    Bổ Cốt Chỉ (Quả)

  • Bồ Kết (Gai)


    Dược liệu Bồ kết (Gai), có tên khoa học là Spina Gleditsiae australis, là gai ở thân và cành đã phơi hay sấy khô của cây Bồ kết (Gleditsia australis Hemsl.), họ Đậu (Fabaceae). Loài cây này phân bố chủ yếu ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia và New Caledonia. Trong y học cổ truyền, y học dân gian, dược liệu này còn được biết đến với tên “Tạo giác thích” dùng để hỗ trợ điều trị các trường hợp áp xe, mụn nhọt, phong thấp và giúp tiêu viêm, tiêu độc, thoát mủ. Về tác dụng dược lý, nghiên cứu hiện đại đã xác nhận khả năng kháng khuẩn, kháng viêm, chống oxy hóa và giảm đau của Bồ Kết (Gai). Thành phần hóa học chính của dược liệu gồm saponin triterpenoid, flavonoid, alkaloid, phenolic và các dẫn xuất của chúng, trong đó saponin chiếm tỉ lệ cao nhất, đóng vai trò chủ yếu trong các hoạt tính sinh học.

    Bồ Kết (Gai)

  • Bồ Kết (Quả)


    Dược liệu Bồ kết (Quả), có tên khoa học là Fructus Gleditsiae australis, là quả chín phơi hay sấy khô của cây Bồ kết (Gleditsia australis Hemsl.), họ Đậu (Fabaceae). Loài thực vật này phân bố chủ yếu ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia và New Caledonia. Trong y học cổ truyền, y học dân gian, Bồ kết (Quả) được dùng làm thuốc chữa ho, tiêu đờm; chữa nhức răng, sâu răng; chữa đi lỵ lâu ngày; chữa phụ nữ sưng vú. Các chiết xuất của dược liệu Bồ kết (Quả) đã được thử nghiệm, cho thấy các tác dụng dược lý đa dạng như hỗn hợp flavonozit và chất saponaretin riêng biệt có hoạt tính chống siêu vi trùng, hỗn hợp saponin có tác dụng với trùng roi âm đạo và hỗn hợp saponin và flavonoit có tác dụng giảm đau. Về thành phần hoá học, trong dược liệu chứa các nhóm chất hoá học Saponin tritepenoid, Flavonoid, Alkaloid, Phenolic… và các dẫn xuất của chúng.

    Bồ Kết (Quả)

  • Bối Mẫu


    Bối mẫu thuộc họ Loa kèn (Liliaceae), có tên khoa học là Fritillaria cirrhosa D.Don. Phân bố: Trên thế giới: Bối mẫu phân bố chủ yếu ở các vùng ôn đới và cận nhiệt đới của châu Á, đặc biệt là ở các nước như Trung Quốc, Nga, Mông Cổ. Ở Việt Nam: không có ở Việt Nam mà chủ yếu được nhập khẩu. Bối mẫu là một vị thuốc quý giá trong y học cổ truyền, có nhiều tác dụng tốt đối với sức khỏe: Trị ho đờm ở phụ nữ có thai, Trị tưa lưỡi ở trẻ em, Trị lao hạch (chứng loa lịch), Trị viêm tuyến vú lúc vừa mới sưng. Thành phần hóa học: Alkaloid: Đây là thành phần chính quyết định tác dụng dược lý của bối mẫu. Tác dụng dược lý: Tác dụng trên đường hô hấp: Thanh nhiệt, nhuận phế, hóa đờm, giảm ho, chống viêm. Tác dụng khác: Có thể bổ sung thêm các tác dụng khác nếu có nghiên cứu, ví dụ như tác dụng chống ung thư, bảo vệ gan.

    Bối Mẫu

  • Cả Củ (Hạt)


    Dược liệu Cải củ (hạt) (Semen Raphani sativi) lấy từ quả chín, phơi hay sấy khô của cây Cải củ (Raphanus sativas L.), họ Cải (Brassicaceae). Cây được trồng ở khắp các địa phương, phát triển tốt ở những vùng có khí hậu mát, hoặc có mùa đông ở Đồng Bằng và trung du Bắc Bộ và cũng mọc ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản và một số nước Đông Nam Á, châu Âu khác. Theo tài liệu cổ lai phục tử có vị cay, ngọt, tính bình vào 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng hạ khí, định xuyễn, tiêu tích hoá đờm. Dùng chữa họ, hen xuyễn, ngực bụng đầy trướng, khí trệ sinh đau, hạ lỵ hậu thũng. Những người khí hư không dùng được. Củ cải (hạt) có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn đối với vi khuẩn gram dương, giúp sự tiêu hoá và chữa họ (nhiều đờm quá), người già ho lâu không khỏi: nôn mửa. Thành phần hóa học của cây gồm các hợp chất sunfua; dầu béo, tinh dầu: Dầu béo có acid arucic, glycerol cynapat raphanin; β-sitosterol, γ-sitosterol, sinapin bisulfat.

    Cả Củ (Hạt)

  • Cà Độc Dược (Hoa)


    Cà độc dược, tên khoa học Datura metel L, họ Cà (Solanaceae). Phân bố tại các vùng châu Mỹ, châu Phi, nam châu Á và 1 số vùng khác trên thế giới. Tại Việt Nam Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, nhiều nhất ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Theo tài liệu cổ cà độc dược vị cay, tính ôn có độc, vào kinh phế. Có tác dụng khử phong thấp, chữa hen xuyễn. Nước sắc dùng rửa những nơi da tê dại, hàn thấp, cước khí, uống trong dùng chữa kinh sợ, cuộn thành thuốc lá hút chữa họ do hàn. Những người thể lực yếu không dùng được. Tác dụng của cà độc dược là tác dụng của atropin và của hyoxin. Atropin làm nở khí đạo khi khí đạo bị co thắt và phó giao cảm bị kích thích, lúc bình thường atropin không tác dụng, ít tác động trên nhu động ruột và co thắt ruột, liều độc atropin tác động lên não làm say có khi phát điên, hô hấp tăng, sốt, cuối cùng thần kinh trung ương bị ức chế và tê liệt. Hyoxin được dùng ở khoa thần kinh để chữa cơn co giật của bệnh Pakinxon, phối hợp với atrpin để chống say phi cơ hoặc tàu thủy, làm thuốc dịu thần kinh. Thành phần hóa học: Trong lá, hoa, hạt và rễ cà độc dược có chứa chất hyoxin hay scopolamin C17H21NO4. Ngoài ra còn có hyoxyamin và atropin C17H21NO3 (atropin=dI. hyoxyamin).

    Cà Độc Dược (Hoa)

  • Cà Độc Dược (Lá)


    Cà độc dược, tên khoa học Datura metel L, họ Cà (Solanaceae). Phân bố tại các vùng châu Mỹ, châu Phi, nam châu Á và 1 số vùng khác trên thế giới. Tại Việt Nam Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, nhiều nhất ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Theo tài liệu cổ cà độc dược vị cay, tính ôn có độc, vào kinh phế. Có tác dụng khử phong thấp, chữa hen xuyễn. Nước sắc dùng rửa những nơi da tê dại, hàn thấp, cước khí, uống trong dùng chữa kinh sợ, cuộn thành thuốc lá hút chữa họ do hàn. Những người thể lực yếu không dùng được. Tác dụng của cà độc dược là tác dụng của atropin và của hyoxin. Atropin làm nở khí đạo khi khí đạo bị co thắt và phó giao cảm bị kích thích, lúc bình thường atropin không tác dụng, ít tác động trên nhu động ruột và co thắt ruột, liều độc atropin tác động lên não làm say có khi phát điên, hô hấp tăng, sốt, cuối cùng thần kinh trung ương bị ức chế và tê liệt. Hyoxin được dùng ở khoa thần kinh để chữa cơn co giật của bệnh Pakinxon, phối hợp với atrpin để chống say phi cơ hoặc tàu thủy, làm thuốc dịu thần kinh. Thành phần hóa học: Trong lá, hoa, hạt và rễ cà độc dược có chứa chất hyoxin hay scopolamin C17H21NO4. Ngoài ra còn có hyoxyamin và atropin C17H21NO3 (atropin=dI. hyoxyamin).

    Cà Độc Dược (Lá)

  • Cà Gai Leo (Rễ, Thân Lá)


    Cây Cà Gai Leo (Solanum procumbens Lour.) thuộc họ Cà (Solanaceae). Cây mọc hoang ở khắp nơi tại các tỉnh miền Bắc, tới Huế. Có thể gặp ở Tiền Giang, Hậu Giang,... Cà gai leo còn thấy ở vài nước châu Á khác như Campuchia, Thái Lan, đảo Hải Nam - Trung Quốc. Rễ cà gai leo được nhân dân dùng làm thuốc chữa phong thấp, đau nhức răng, sâu răng chảy máu chân răng. Có nơi nhân dân coi như có tác dụng chữa say rượu. Người ta cho rằng trong khi uống rượu thỉnh thoảng sát răng bằng rễ cà gai leo thì tránh được say rượu. Nếu bị say uống nước sắc của rễ. Ngoài ra còn dùng chữa bệnh lậu. Cà gai leo có tác dụng dược lý trên các mô hình thử nghiệm trên chuột trong phản ứng viêm, tác dụng miễn dịch, tác dụng gây độc, tác dụng chống co thắt phế quản, tác dụng ngăn chặn xơ gan trên mô hình thực nghiệm. Thành phần hóa học của cây bao gồm: Alcaloid, saponozit, flavonozit solassodin, solasodinon,...

    Cà Gai Leo (Rễ, Thân Lá)

  • Cam Thảo (Rễ Và Thân Rễ)


    Cam Thảo (Radix et Rhizoma Glycyrrhizae) là rễ và thân rễ còn vỏ hoặc đã cạo lớp bần, được phơi hay sấy khô của ba loài Cam thảo Glycyrrhizae uralensis Fisch., Glycyrrhiza inflata Bat. hoặc Giycyrrhiza glabra L., thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây có nguồn gốc ở vùng ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Liên Bang Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan…Theo kinh nghiệm sử dụng dân gian, cam thảo sống được dùng để chữa cảm, ho mất tiếng, viêm họng, mụn nhọt, đau dạ dày, ngộ độc. Hoạt chất chính trong cam thảo là chất glycyrrhizin với tỷ lệ từ 6-14%, có khi tới 23%, thuộc nhóm saponosid. Nhóm flavonoid trong dược liệu này bao gồm các hợp chất liquiritin, liquiritigenin, isoliquiritin, isoliquiritigenin, neoliquiritin,...

    Cam Thảo (Rễ Và Thân Rễ)

  • Cam Thảo Nam (Toàn Cây)


    Cam thảo nam (Herba et Radix Scopariae) là toàn cây kể cả rễ dạng tươi hay đã phơi hoặc sấy khô của cây Cam thảo nam (Scoparia dulcis L.), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Đây là một loại cây sống lâu năm, thường tìm thấy ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, mọc hoang khắp nơi ở Việt Nam. Theo y học dân gian, cam thảo nam dùng thay vị cam thảo bắc để chữa sốt, chữa say sắn, giải độc cơ thể, còn dùng chữa ho, viêm họng, ban sởi, kinh nguyệt quá nhiều. Về tác dụng dược lý, cam thảo nam thể hiện hoạt tính chống oxy hóa, chống viêm, giảm đau, chống đái tháo đường. Cây chứa một alcaloid và một chất đắng, còn có nhiều acid silicic và một hoạt chất gọi là amellin, diterpen (scopariol), flavonoid, triterpen, sterol.

    Cam Thảo Nam (Toàn Cây)

  • Cần Tây (Quả)


    Cần tây (Fructus Apii graveolens) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Cần tây (Apium graveolens I,.), thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Loài cây này có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và bờ biển Đại Tây Dương, hiện được trồng rộng rãi trên toàn thế giới, bao gồm châu Âu, châu Á, châu Phi, và châu Mỹ. Tại Việt Nam, Cần tây được trồng phổ biến ở khắp các vùng và được sử dụng như một loại rau ăn. Cần tây có khả năng ngăn ngừa bệnh tim mạch, bệnh gan, vàng da, bệnh gút, thấp khớp, và tắc nghẽn đường tiết niệu. Ngoài ra, cây còn có tác dụng giảm glucose, lipid máu, huyết áp, cải thiện chức năng tim mạch, cũng như có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn, và chống viêm. Thành phần hóa học chính của Cần tây là apigenin, một hợp chất có tác dụng chống oxy hóa và nhiều lợi ích cho sức khỏe.

    Cần Tây (Quả)

  • Cánh Kiến Trắng (Nhựa)


    Cánh kiến trắng (Benzoinum), tên khoa học là Styrax tonkinensis (Pierre) Craib ex Hardw., thuộc họ bồ đề (Styracaceae). Cây phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi nước ta như Hòa Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, và Nghệ An, đồng thời cũng có ở các quốc gia như Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc. Thành phần hóa học của cánh kiến trắng rất phong phú, bao gồm các triterpenoid, neolignan, và các hợp chất thơm như axit benzoic, vanillin, dehydrodivanillin. Cánh kiến trắng có tác dụng dược lý bao gồm chống khối u, bảo vệ thần kinh, chống viêm, kháng khuẩn và chống oxy hóa. Cánh kiến trắng đã được sử dụng trong y học cổ truyền để khai khiếu trấn tĩnh, khư hủ sinh cơ, chỉ khái. Trong đông y, cánh kiến trắng được dùng trong trị sản hậu huyết vậng, tâm phúc đông thống, trẻ em kinh giản, phong thấp đau lưng, trúng phong hôn mê, suyễn khan, cảm mạo, trúng thử, đau dạ dày và ngoại thương xuất huyết. Lá dùng trị ho do phế nhiệt. Dùng ngoài làm mau lành các vết thương, chữa nẻ vú. Hiện nay cánh kiến trắng dùng trong chữa viêm phế quản kinh niên và xổ nước đường hô hấp.

    Cánh Kiến Trắng (Nhựa)

  • Cát Cánh (Rễ)


    Cát cánh (Rễ) (Radix Platycodi grandiflori) là rễ để nguyên hoặc đã cạo vỏ ngoài, phơi hoặc sấy khô của cây Cát cánh [Platycodon grandiflorum (Jacq.) A. DC.], họ Hoa chuông (Campanulaceae). Cát cánh là loài cây của miền ôn đới (Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên), được di thực vào Việt Nam và trồng ở các tỉnh miền Bắc. Rễ cát cánh có tính khổ, tân, hơi ôn, vào kinh phế. Dược liệu dùng trị ho đờm nhiều, ngực tức, họng đau, tiếng khàn, áp xe phổi, tiêu mủ, mụn nhọt. Về thành phần hóa học, rễ cát cánh có chứa nhóm saponin triterpenoid chia thành 3 nhóm acid platycodic, acid platycogenic và acid polygalacic; ngoài ra còn có flavonoid và một số thành phần khác như: các acid phenol, polyacetylen, sterol, acid béo (acid linoleic) và Amino acid.

    Cát Cánh (Rễ)

  • Cát Cánh (Rễ)


    Cát cánh (Radix Platycodi grandiflori) là rễ để nguyên hoặc đã cạo vỏ ngoài, phơi hoặc sấy khô của cây Cát cánh (Platycodon grandiflorum (Jacq.) A. DC.), thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Cát cánh phân bố chủ yếu ở các khu vực châu Á. Ngoài ra, cây cũng được du nhập vào một số quốc gia ở châu Âu và châu Mỹ. Cát cánh được nhập vào Việt Nam khoảng gần 40 năm trước và hiện được trồng ở các khu vực như Sapa, Tam Đảo, Lào Cai, Nam Định, Hà Nam, và Thái Bình. Theo y học cổ truyền, Cát cánh có vị đắng, tính bình, với công năng ôn hóa hàn đàm, trừ mủ, và lợi hầu họng. Cát cánh được dùng chủ trị các chứng ho đờm nhiều, ngực tức, họng đau, tiếng khàn, áp xe phổi, tiêu mủ, và mụn nhọt. Thành phần hóa học chính của Cát cánh là nhóm saponin, bao gồm hoạt chất tiêu biểu như platycoside E (C69H112O38), được ghi nhận trong Dược điển Hong Kong. Các thành phần này có tác dụng trừ đờm và phá huyết cao, mang lại hiệu quả trong điều trị các bệnh về hô hấp và các tình trạng viêm nhiễm.

    Cát Cánh (Rễ)

  • Cát Sâm (Rễ)


    Cát Sâm (Radix Millettiae speciosae) là rễ củ đã phơi hay sấy khô của cây Cát sâm (Millettia speciosa Champ.), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Dược liệu này phân bố chủ yếu tại miền Nam Trung Quốc và mọc nhiều tại các tỉnh miền núi và trung du ở Việt Nam. Trong y học cổ truyền, Cát Sâm được sử dụng để sinh tân dịch, chỉ khát, nhuận phế, lợi tiểu, và điều trị các chứng như tân dịch hao tổn, háo khát, ho do phế nhiệt, và đái buốt rắt. Khi sao vàng hoặc tẩm gừng, dược liệu còn có tác dụng bổ tỳ, ích khí, tiêu đờm, và bồi bổ cơ thể. Về tác dụng dược lý, Cát Sâm có tác dụng chống ho nhưng cũng có độc tính trong thân và lá. Thành phần hóa học chủ yếu trong rễ của Cát Sâm là alcaloid.

    Cát Sâm (Rễ)

  • Cau (Hạt)


    Cau (Semen Arecae catechi) là là hạt đã phơi hoặc sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Cây Cau có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Ở Việt Nam, cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt cau được mài thành bột, phơi khô, hòa với dầu để bôi lên giúp chữa trẻ con bị chốc đầu. Ngoài ra, hạt cau còn được kết hợp với thường sơn, thảo quả để chữa sốt rét. Thành phần hóa học chính trong hạt cau gồm alkaloid, đặc biệt là arecolin, giúp kích thích tiết nước bọt và dịch vị, hỗ trợ tiêu hóa.

    Cau (Hạt)

  • Cau (Hạt)


    Cau (Semen Arecae catechi) là là hạt đã phơi hoặc sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Cây Cau có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Ở Việt Nam, cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt cau được mài thành bột, phơi khô, hòa với dầu để bôi lên giúp chữa trẻ con bị chốc đầu. Ngoài ra, hạt cau còn được kết hợp với thường sơn, thảo quả để chữa sốt rét. Thành phần hóa học chính trong hạt cau gồm alkaloid, đặc biệt là arecolin, giúp kích thích tiết nước bọt và dịch vị, hỗ trợ tiêu hóa.

    Cau (Hạt)

  • Cau (Hạt)


    Cau (Semen Arecae catechi) là là hạt đã phơi hoặc sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Cây Cau có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Ở Việt Nam, cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt cau được mài thành bột, phơi khô, hòa với dầu để bôi lên giúp chữa trẻ con bị chốc đầu. Ngoài ra, hạt cau còn được kết hợp với thường sơn, thảo quả để chữa sốt rét. Thành phần hóa học chính trong hạt cau gồm alkaloid, đặc biệt là arecolin, giúp kích thích tiết nước bọt và dịch vị, hỗ trợ tiêu hóa.

    Cau (Hạt)

  • Cau (Hạt)


    Cau (Semen Arecae catechi) là là hạt đã phơi hoặc sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Cây Cau có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Ở Việt Nam, cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt cau được mài thành bột, phơi khô, hòa với dầu để bôi lên giúp chữa trẻ con bị chốc đầu. Ngoài ra, hạt cau còn được kết hợp với thường sơn, thảo quả để chữa sốt rét. Thành phần hóa học chính trong hạt cau gồm alkaloid, đặc biệt là arecolin, giúp kích thích tiết nước bọt và dịch vị, hỗ trợ tiêu hóa.

    Cau (Hạt)

  • Cau (Hạt)


    Cau (Semen Arecae catechi) là là hạt đã phơi hoặc sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Cây Cau có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Ở Việt Nam, cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt cau được mài thành bột, phơi khô, hòa với dầu để bôi lên giúp chữa trẻ con bị chốc đầu. Ngoài ra, hạt cau còn được kết hợp với thường sơn, thảo quả để chữa sốt rét. Thành phần hóa học chính trong hạt cau gồm alkaloid, đặc biệt là arecolin, giúp kích thích tiết nước bọt và dịch vị, hỗ trợ tiêu hóa.

    Cau (Hạt)

  • Cau (Vỏ)


    Cau (Pericarpium Arecae catechi) là phần vỏ quả đã bỏ vỏ ngoài (lớp vỏ màu xanh) phơi hay sấy khô của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Loài này có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi ở nước ta. Trong y học, vỏ cau được sử dụng làm thuốc lợi tiểu với tên vị thuốc là "đại phúc bì" và có tác dụng chữa giun sán. Thành phần hóa học của vỏ cau gồm 15-20% tanin và các ancaloit chính như arecolin, guvacolin, arecaidin, và guvaxin. Arecolin trong vỏ cau gây tiết nước bọt nhiều, tăng bài tiết dịch vị và dịch tràng, làm co nhỏ đồng tử, tim đập chậm (trừ khi có mặt canxi), tăng nhu động ruột.

    Cau (Vỏ)

  • Cau (Vỏ)


    Cau (Pericarpium Arecae catechi) là phần vỏ quả đã bỏ vỏ ngoài (lớp vỏ màu xanh) phơi hay sấy khô của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Loài này có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi ở nước ta. Trong y học, vỏ cau được sử dụng làm thuốc lợi tiểu với tên vị thuốc là "đại phúc bì" và có tác dụng chữa giun sán. Thành phần hóa học của vỏ cau gồm 15-20% tanin và các ancaloit chính như arecolin, guvacolin, arecaidin, và guvaxin. Arecolin trong vỏ cau gây tiết nước bọt nhiều, tăng bài tiết dịch vị và dịch tràng, làm co nhỏ đồng tử, tim đập chậm (trừ khi có mặt canxi), tăng nhu động ruột.

    Cau (Vỏ)

  • Cau (Vỏ)


    Cau (Pericarpium Arecae catechi) là phần vỏ quả đã bỏ vỏ ngoài (lớp vỏ màu xanh) phơi hay sấy khô của cây Cau (Areca catechu L.), thuộc họ Cau (Arecaceae). Loài này có nguồn gốc từ Philippines và đã được du nhập vào nhiều khu vực, bao gồm châu Á, châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi. Cây Cau được trồng phổ biến khắp nơi ở nước ta. Trong y học, vỏ cau được sử dụng làm thuốc lợi tiểu với tên vị thuốc là "đại phúc bì" và có tác dụng chữa giun sán. Thành phần hóa học của vỏ cau gồm 15-20% tanin và các ancaloit chính như arecolin, guvacolin, arecaidin, và guvaxin. Arecolin trong vỏ cau gây tiết nước bọt nhiều, tăng bài tiết dịch vị và dịch tràng, làm co nhỏ đồng tử, tim đập chậm (trừ khi có mặt canxi), tăng nhu động ruột.

    Cau (Vỏ)

  • Câu Kỷ Tử (Quả)


    Câu kỷ tử (Fructus Lycii) là quả chín phơi khô hay sấy khô của cây Câu kỷ (Lycium barbarum L.), thuộc họ Cà (Solanaceae). Về phân bố, cây Câu kỷ có nguồn gốc từ khu vực miền Trung và miền Nam Trung Quốc, bao gồm Nội Mông, Thanh Hải và Tân Cương. Hiện nay, cây được du nhập và phân bố rộng rãi trên toàn cầu, từ châu Á (Nepal, Hàn Quốc, Việt Nam) đến châu Âu (Anh, Đức, Pháp, Tây Ban Nha), Bắc Mỹ (Mỹ, Canada), Nam Mỹ (Argentina) và châu Đại Dương (Úc). Tại Việt Nam, cây có thể được trồng ở nhiều nơi, bao gồm Hà Nội và Lâm Đồng. Theo y học cổ truyền, dược liệu này có tính cam, binh, quy vào các kinh phế, can, thận. Công dụng của quả dùng trị can thận âm hư, tinh huyết bất định, khí lục giảm sút, lưng gối đau mỏi, đầu váng tai điếc, mắt mờ nhìn không rõ. Thành phần hóa học chính là polysaccharides (Lycium barbarum polysaccharides - LBP), đây là nhóm chất được nghiên cứu nhiều nhất trong Câu kỷ tử. Ngoài ra, dược liệu còn cung cấp carotenoids (zeaxanthin, β-carotene, vitamin (A, B1, B2, C), alkaloid (betaine) và các hợp chất khác như flavonoid, steroid, phenol. Câu kỷ tử có các tác dụng dược lý như tăng cường miễn dịch, hạ cholesterol máu và đường huyết, bảo vệ gan, làm chậm quá trình lão hóa, và hỗ trợ làm tăng lượng bạch cầu.

    Câu Kỷ Tử (Quả)

  • Cẩu Tích (Thân Rễ)


    Cẩu Tích (Rhizoma Cibotii Culi) là phần thân rễ đã loại bỏ lông và phơi hay sấy khô của cây Cẩu tích [Cibotium barometz (L.) J. Sm.], họ Cẩu tích (Dicksoniaceae). Trên thế giới, cây phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới châu Á. Tại Việt Nam, cây có ở Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh qua Nghệ An, Hà Tĩnh, đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong y học cổ truyền, Cẩu tích được xem là vị thuốc có tính ấm, vị đắng ngọt, quy vào kinh can, thận, giúp bổ can thận, mạnh gân xương, trừ phong thấp. Lông Cẩu tích có khả năng cầm máu. Cây thường được dùng để trị các chứng đau lưng, nhức mỏi tay chân, thấp tê, đau dây thần kinh tọa, tiểu són, di tinh, bạch đới, và giảm viêm hiệu quả. Cẩu tích chứa nhiều thành phần hóa học đa dạng như dầu dễ bay hơi, pterosin, hợp chất phenolic tan trong nước, flavonoid, axit amin, và các nguyên tố vi lượng. Cẩu tích có các tác dụng dược lý quan trọng, bao gồm chống loãng xương, bảo vệ gan, chống oxy hóa và chống viêm.

    Cẩu Tích (Thân Rễ)

  • Cây Hoa Súng (Củ Súng)


    Cây hoa súng (Nymphaea stellata Willd.), thuộc họ Súng (Asteraceae). Cây tập trung ở vùng nhiệt đới như Nam Á, Đông Nam Á, trải dài các nước từ Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Ấn Độ… Trong y học cổ truyền, củ súng được dùng để chữa cương đau dương vật, mộng tinh, bạch đới, bạch trọc, trị mất ngủ, bồn chồn, tim đập nhanh, viêm bàng quang, viêm thận đau lưng, mỏi gối, ù tai, tiểu không tự chủ. Theo y học hiện đại thì củ súng có tác dụng chống oxy hóa, an thần, trị tiêu chảy và bổ thận tráng dương. Thành phần hóa học của củ súng là Flavonoid và Tanin. Ngoài ra, trong củ súng còn có chứa acid phenolic glycosyl hóa như acid syringic hexoside, các flavonoid có thể kể đến như quercetin hexoside và apigenin....

    Cây Hoa Súng (Củ Súng)

  • Cây Kim Ngân (Nụ Hoa)


    Kim ngân (Hoa) (Flos Lonicerae) là nụ hoa có lẫn một số hoa đã phơi hay sấy khô của cây Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.). Cây phân bố rộng rãi ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương. Còn ở Việt Nam cây mọc chủ yếu ở các vùng núi ở các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Nụ hoa kim ngân có tính cam, hàn, vào các kinh phế, vị, tâm. Dược liệu dùng trị ung nhọt, ban sởi, mày đay, lở ngứa, cảm mạo phong nhiệt, ôn bệnh phát nhiệt, nhiệt độc huyết lị. Thành phần hóa học của nụ hoa kim ngân gồm có flavonoid, tinh dầu và một số thành phần khác.

    Cây Kim Ngân (Nụ Hoa)

  • Cây Kim Tiền Thảo (Phần Trên Mặt Đất)


    Kim tiền thảo (Herba Desmodii styracifolii) là phần trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Kim tiền thảo [Desmodium styracifolium (Osbeck.) Merr.], họ Đậu (Fabaceae). Cây phân bố chủ yếu ở Nam Á, Đông Nam Á, Đông Nam Trung Quốc, và các đảo khu vực Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây mọc hoang dại trên những đổi vùng đồi núi trung du, một số ít vùng núi. Kim tiền thảo có tính cam, hàm, lương, quy vào các kinh can, đơm, thận, bàng quang. Cây dùng trị nhiệt lâm, thạch lâm, phù thũng, hoàng đản. Thành phần hóa học kim tiền thảo gồm có Polysaccharid, Saponin triterpenic, Flavonoid isovitexin, vicenin glycosid, isoorientin và các nhóm khác.

    Cây Kim Tiền Thảo (Phần Trên Mặt Đất)

  • Cây Ổi (Lá)


    Lá Cây Ổi(Folium Psidii guajavae) là lá đã phơi hoặc sấy khô của cây Ổi (Psidium guajava L.). họ Sim (Myrtaceae). Cây có nguồn gốc từ Nam Mỹ, hiện phân bố rộng rãi trên thế giới và được trồng phổ biến tại Việt Nam để ăn quả cũng như làm thuốc. Theo tài liệu cổ, lá ổi có vị đắng, chát, hơi chua, tính ấm, vào kinh đại tràng, vị. Dược liệu này được dùng trị đau bụng tiêu chảy, lỵ, dùng ngoài nấu nước rửa vết thương, mụn nhọt lở loét. Lá ổi chứa nhiều thành phần hóa học có giá trị như tinh dầu (0,36%), tanin pyrogalic (7-10%), nhựa (khoảng 3%), acid psiditanic, chất triterpenic (lupeol, amyrin), cùng với flavonoid (quercetin), acid phenolic (gallic acid, chlorogenic acid), và vitamin C. Các thành phần này mang lại nhiều tác dụng dược lý, đặc biệt là khả năng kháng khuẩn, kháng viêm, chống oxy hóa và làm săn mô niêm mạc.

    Cây Ổi (Lá)

  • Chè Đắng (Lá)


    Lá cây chè đắng (Folium ilexi kaushii) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Chè đắng (Ilex kaushue S.Y.Hu; Syn. Ilex kudingcha C.J. Tseng), họ Trâm bùi (Aquifoliaceae). Trên thế giới, cây phân bố ở Trung Quốc, Hải Nam còn ở Việt Nam cây có ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Theo y học cổ truyền, cây được sử dụng để trị cảm nắng sốt cao, các chứng do thử nhiệt như: viêm họng, lỵ, viêm dạ dày cấp tính; đau đầu hoa mắt, bệnh tăng huyết áp, cholesterol máu cao; trừ lỵ do thấp nhiệt. Tác dụng dược lý của cây chè đắng là giúp làm giảm cholesterol, lợi tiểu, chống oxy hóa, hạ huyết áp. Trong cây có chứa triterpenoid saponin, Flavonoid, Polyphenol, Sterol thực vật, Polysaccharide.

    Chè Đắng (Lá)

  • Chè Dây (Lá)


    Lá Chè Dây là lá đã phơi sấy khô của cây Chè dây [Ampelopsis cantoniensis (Hook. et Am.) Planch.], thuộc họ Nho (Vitaceae). Trên thế giới, cây phân bố ở Campuchia, Trung Quốc Nam-Trung Bộ, Trung Quốc Đông Nam Bộ, Hải Nam, Nhật Bản, Lào, Malaya, Nansei-shoto, Đài Loan, Thái Lan. Ở Việt Nam cây có ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Nghệ An, Lâm Đồng và Đồng Nai. Cây được sử dụng lá nấu nước uống thay chè, chiết ra dạng cao khô dùng chữa loét dạ dày tá tràng. Tài liệu Trung Quốc dùng chè dây chữa viêm kết mạc cấp tính, viêm gan thế hoàng đản, cảm mạo phong nhiệt, viêm họng, mụn nhọt. Dùng toàn cây ngày 15 - 60g sắc uống. Dùng ngoài, lấy cây tươi, đun sôi, xông, chữa viêm kết mạc cấp. Theo y học cổ truyền, cây có tác dụng trị đau dạ dày, tá tràng; viêm đại tràng; chậm liền sẹo. Trong cây có chứa flavonoid với hàm lượng là 18.15%, tanin, đường, không có alcaloid và saponin.

    Chè Dây (Lá)

  • Chè Vằng (Lá)


    Chè Vằng (Polium Jasmini subtriplinervis) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Vằng (Jasminum subtriplinerve Blume), thuộc họ Nhài (Oleaceae). Chè vằng phân bố chủ yếu ở khu vực châu Á và mọc hoang khắp Việt Nam. Nhân dân nhiều tỉnh sử dụng lá vằng phơi khô để nấu hoặc pha nước uống hàng ngày cho phụ nữ sau khi sinh. Ngoài ra, có nơi dùng lá vằng nấu nước tắm cho trẻ em bị ghẻ lở, và tại miền Nam, chè vằng được dùng để chữa sưng vú cho phụ nữ mới sinh. Trong thành phần của chè vằng có chứa Alkaloid, flavonoid, và glycosid.

    Chè Vằng (Lá)

  • Chi Tử (Quả)


    Dành dành, tên khoa học Gardenia jasminoides Ellis, thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), là một dược liệu quý phổ biến ở châu Á, đặc biệt tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong y học cổ truyền, quả chín (Chi tử) có vị đắng, tính hàn, quy vào các kinh tâm, phế, vị, và can, được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, chữa vàng da, sốt cao, mất ngủ, và viêm nhiễm. Thành phần hóa học chính trong quả Dành dành gồm các iridoid glycosides như geniposide (biomarker quan trọng), gardenoside, cùng với carotenoids như crocin và crocetin – tạo màu vàng đặc trưng và có tác dụng chống oxy hóa mạnh. Tác dụng dược lý của Dành dành như giảm đau, chống viêm, hạ huyết áp, an thần và kháng khuẩn.

    Chi Tử (Quả)

  • Chi Tử (Quả)


    Dành dành, tên khoa học Gardenia jasminoides Ellis, thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), là một dược liệu quý phổ biến ở châu Á, đặc biệt tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong y học cổ truyền, quả chín (Chi tử) có vị đắng, tính hàn, quy vào các kinh tâm, phế, vị, và can, được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, chữa vàng da, sốt cao, mất ngủ, và viêm nhiễm. Thành phần hóa học chính trong quả Dành dành gồm các iridoid glycosides như geniposide (biomarker quan trọng), gardenoside, cùng với carotenoids như crocin và crocetin – tạo màu vàng đặc trưng và có tác dụng chống oxy hóa mạnh. Tác dụng dược lý của Dành dành như giảm đau, chống viêm, hạ huyết áp, an thần và kháng khuẩn.

    Chi Tử (Quả)

  • Chỉ Xác (Quả)


    Chỉ xác (Fructus Aurantii) là Quả chưa chín đã bổ đôi, phơi hay sấy khô của cây Cam chua (Citrus aurantium L), họ Cam (Rutaceae) hoặc cây Cam ngọt [Citrus sinensis (L.) Osbeck], họ Cam (Rutaceae). Phân bố nhiều nơi ở miền Bắc và miền Nam nước ta; các nông trường trồng chanh cam ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hoá.Theo kinh nghiệm dân gian có tác dụng trên tử cung và dạ dày, ruột; tác dụng trên mạch máu, bộ máy tiết niệu và hô hấp. Chỉ xác chứa 9,89 Glucozit và các hoạt chất khác chưa rõ.

    Chỉ Xác (Quả)

  • Chiêu Liêu (Vỏ Thân)


    Chiêu liêu (Cortex Terminaliaen nigrovenulosae) là phần vỏ thân của cây chiêu liêu (Terminalia nigrovenulosa Pierre ex. Laness) thuộc họ Bàng (Combretaceae). Phân bố từ Kon Tum, Gia Lai, Đak Lak, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai đến Kiên Giang, An Giang. Người dân Campuchia dùng để chữa đi ỉa lỏng và lỵ; có thể dùng chữa các chứng vô danh thũng độc, ung thư ruột, viêm phổi có mủ, các chứng thai tiền sản hậu của đàn bà, đàn ông đái dục, lậu kê; còn dùng làm thuốc giục. Thành phần hóa học: 35% cao khô trong đó có acid cachoutanic và plobaphen, có tới 2% Tanin và 10% oxalat calcium.

    Chiêu Liêu (Vỏ Thân)

  • Cỏ Cứt Lợn( Cây)


    Cỏ cứt lợn có tên khoa học là Ageratum conyzoides L, thuộc họ Cúc (Asteraceae), phân bố rộng rãi ở nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm cả Việt Nam. Cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường được thu hái lá và toàn cây để làm thuốc( trừ rễ). Từ lâu, cỏ cứt lợn đã được sử dụng trong y học dân gian để điều trị nhiều bệnh khác nhau như rong huyết, đa kinh, chảy máu cam, chảy máu chân răng, viêm mũi, viêm xoang mũi dị ứng,gàu ngứa.. Theo y học cổ truyền, cây Vị hơi đắng, mùi thơm, tính bình có tác dụng cầm máu, tiêu sưng rất hiệu quả. Các nghiên cứu hiện đại đã chỉ ra rằng, cây cứt lợn chứa nhiều thành phần hóa học có hoạt tính sinh học như flavonoid, diterpen,coumarin, sesquiterpen, chromen,alcaloid ,saponin, phytosterol ,monoterpene,.. trong đó các hợp chất như flavonoid, diterpen có hoạt tính chống viêm, kháng khuẩn, giảm đau hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng cỏ cứt lợn cần thận trọng và tuân theo hướng dẫn của thầy thuốc để tránh tác dụng phụ không mong muốn

    Cỏ Cứt Lợn( Cây)

  • Cỏ Mần Trầu ( Cây )


    Cỏ mần trầu, tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn, thuộc họ Lúa (Poaceae ). Trong dân gian, cỏ mần trầu không chỉ là một loại rau gia vị thơm ngon mà còn là một "bài thuốc quý" trong y học cổ truyền .Cây được phân bố rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới như Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương, Bắc Mỹ, Nam Mỹ bao gồm cả Việt Nam. Ở Việt Nam, cây mọc hoang ở nhiều nơi, thường được thu hái lá và toàn cây để làm thuốc (trừ rễ). Theo y học cổ truyền, cây có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, phát hãn, hạ sốt, giải độc mát gan, lợi tiểu rất hiệu quả. Nhờ hàm lượng tinh dầu, flavonoid và các chất chống oxy hóa cao, cỏ mần trầu mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe như kháng khuẩn, kháng viêm, chống oxy hoá, thanh nhiệt, hạ huyết áp,hạ sốt, lợi tiểu..

    Cỏ Mần Trầu ( Cây )

  • Cỏ Ngọt (Lá)


    Lá Cỏ ngọt (Folium Steviae rebaudianae) là lá thu hái ở những cây sắp ra hoa phơi hay sấy khô của cây Cỏ ngọt [Stevia rebaudiana (Bertoni) Hemsley], họ Cúc (Asteraceae). Cây có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Ở Việt Nam, cây tập trung ở một số nơi như: Thái Nguyên, Hà Nội, Đăk Lăk,... Theo tài liệu cổ, lá cỏ ngọt có vị ngọt, tính mát, vào kinh phế tỳ thận. Dươc liệu này được dùng để trừ tiêu khát, lợi tiểu, hạ huyết áp dùng trong các trường hợp đái tháo đường, đái tháo nhạt, bí tiểu tiện, huyết áp cao. Thành phần hóa học của lá cỏ ngọt gồm có steviosid, diterpen glucosid, triterpenoid, sterol, tanin, tinh dầu, protex, lipid.…

    Cỏ Ngọt (Lá)

  • Cỏ Nhọ Nồi (Phần Cây Trên Mặt Đất)


    Cỏ nhọ nồi (Herba Ecliptae) là toàn bộ phần trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Cỏ nhọ nồi (Eclipta prostrata L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây tập trung ở các nước nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi. Ở việt Nam, cây phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Theo tài liệu cổ, cỏ nhọ nồi có tính cam, toan, hàn, vào hai kinh can, thận. Dược liệu dùng trị gan, thận âm hư, các chứng huyết nhiệt, chứng ho ra máu, nôn ra máu, đại tiện và tiểu tiện ra máu, chảy máu cam, chảy máu dưới da, băng huyết, rong huyết.Thành phần hóa học cỏ nhọ nồi gồm coumarin nhóm coumestan (điển hình là wedelolactone), alcaloid ecliptin, nicotin, saponin triterpen, các dẫn chất triterpenoid tự do, các steroid tự do, các dẫn chất polyacetylen.

    Cỏ Nhọ Nồi (Phần Cây Trên Mặt Đất)

  • Cỏ Nhọ Nồi (Phần Cây Trên Mặt Đất)


    Cỏ nhọ nồi (Herba Ecliptae) là toàn bộ phần trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Cỏ nhọ nồi (Eclipta prostrata L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây tập trung ở các nước nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi. Ở việt Nam, cây phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam. Theo tài liệu cổ, cỏ nhọ nồi có tính cam, toan, hàn, vào hai kinh can, thận. Dược liệu dùng trị gan, thận âm hư, các chứng huyết nhiệt, chứng ho ra máu, nôn ra máu, đại tiện và tiểu tiện ra máu, chảy máu cam, chảy máu dưới da, băng huyết, rong huyết.Thành phần hóa học cỏ nhọ nồi gồm coumarin nhóm coumestan (điển hình là wedelolactone), alcaloid ecliptin, nicotin, saponin triterpen, các dẫn chất triterpenoid tự do, các steroid tự do, các dẫn chất polyacetylen.

    Cỏ Nhọ Nồi (Phần Cây Trên Mặt Đất)

  • Cỏ Tranh (Thân Rễ)


    Cỏ tranh (Rhizoma Imperatae cylindricae) là thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Cỏ tranh (Imperata cylindrica p. Beauv), thuộc họ Lúa (Poaccae). phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới, ôn đới và cận nhiệt đới, bao gồm châu Âu (Pháp, Ý, Hy Lạp, Tây Ban Nha), châu Phi, và châu Á (các nước Đông Nam Á). Trong y học dân gian, thân rễ cỏ tranh được sử dụng phổ biến để nấu chè lợi tiểu và làm thuốc chữa bệnh, điển hình như bài Như Thần Thang (trong sách Thánh Huệ Phương) chữa phổi nóng và Ma Căn Thang chữa đái ra máu. Cỏ tranh có các tác dụng dược lý chính như lợi tiểu, cầm máu, thanh nhiệt giải độc, chống viêm và giảm an thần nhẹ. Thành phần hóa học của thân rễ cỏ tranh bao gồm các loại đường (glucose, fructose, sucrose), acid hữu cơ (malic, citric, oxalic), flavonoid (luteolin, apigenin, orientin), phenolic (imperanene, acid p-coumaric), saponin, lignan (gravinol A, B) và các khoáng chất như silica, potassium, calcium.

    Cỏ Tranh (Thân Rễ)

  • Cỏ Xước (Rễ)


    Cỏ Xước (Radix Achyranthis asperae) là rễ đã phơi hay sấy khô của cây Cỏ xước (Achyranthes aspera L.), thuộc họ Rau giền (Amaranthaceae). Cây xuất hiện ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm Nam Á, Đông Nam Á, châu Phi, Trung Mỹ, và các đảo Thái Bình Dương. Cỏ xước phân bố rộng rãi tại Việt Nam, phổ biến từ vùng đồng bằng đến trung du và miền núi thấp trên khắp cả nước. Trong y học cổ truyền, cây được dùng để chữa viêm khớp, đau lưng, sỏi thận, rối loạn kinh nguyệt và hỗ trợ tiêu hóa. Thành phần hóa học của cây bao gồm saponin (acid oleanolic), sterol (stigmasterol, β-sitosterol), flavonoid (quercetin), acid béo (dodecanoic acid), và ecdysteroid (β-ecdysteron).

    Cỏ Xước (Rễ)

  • Cóc Mẳn


    Cóc mẳn (Centipeda minima (L.) A. Braun & Asch., họ Cúc - Asteraceae) là một loại cỏ nhỏ, mọc bò lan trên đất ẩm, phân bố rộng rãi tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, và Việt Nam. Tại Việt Nam, cây thường gặp ở các vùng đất ẩm, ruộng bỏ hoang, đặc biệt là khu vực xung quanh Hà Nội. Trong y học cổ truyền, cóc mẳn được dùng để khu phong, tán hàn, thông khiếu, tiêu sưng, và chủ trị các bệnh như cảm, tắc mũi, đau họng, ho gà, hen hàn, và chấn thương. Cóc mẳn có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa và kích thích thần kinh. Thành phần hóa học chính của cây bao gồm tinh dầu, taraxasterol, taraxasterol axetat, và arnidiol.

    Cóc Mẳn

  • Cốc Tinh Thảo


    Cốc tinh thảo (Eriocaulon sexangulare L., họ Cỏ dùi trống - Eriocaulaceae) là một loài cỏ sống hàng năm, mọc hoang ở những vùng đất ẩm thấp tại Việt Nam, đặc biệt phổ biến ở các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên và Lạng Sơn. Hiện nay cốc tinh thảo còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân để chữa những trường hợp đau mắt, nhức mắt, chữa nhức đầu, sốt và thông tiểu tiện. Với tính vị tân, cam, bình, cốc tinh thảo quy vào các kinh can và vị, hỗ trợ thanh nhiệt và sáng mắt. Thành phần hóa học chưa được nghiên cứu chi tiết.

    Cốc Tinh Thảo

  • Cối Xay (Phần Trên Mặt Đất Đã Phơi, Sấy Khô)


    Cối xay hay tên gọi khác là ma bàn thảo, giằng xay có tên khoa học là Abutilon indicum (L.) Sweet thuộc họ Bông (Malvaceae). Mọc dại khắp nơi trên toàn Việt Nam, phân bố nhiều nơi trên toàn thế giới, nguồn gốc từ các nước châu á, châu phi, nam mĩ sau đó được di thực sang nhiều nước châu âu và Bắc Mĩ. Thành phần hóa học của Cối xay khá đa dạng gồm những flavonoid, phenol, acid amin, acid hữu cơ, đường. Có tác dụng dược lý hạ sốt, chống viêm và lợi tiểu. Cối xay là vị thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm nhân dân, chữa cảm sốt, đau đầu, bí tiểu, phù thũng sau khi đẻ, kiết lị. Lá giã nát đắp ngoài chữa mụn nhọt.

    Cối Xay (Phần Trên Mặt Đất Đã Phơi, Sấy Khô)

  • Cơm Cháy (Hoa)


    Cơm cháy (Hoa) có tên khoa học là Flos Sambuci javanicae, thuộc loài Sambucus javanica Blume, họ Sambucaceae. Cây mọc hoang và được trồng ở hầu khắp đất nước ta. Theo y học cổ truyền, hoa cây cơm cháy có vị đắng, tính ấm có tác dụng tiêu phù lợi tiểu, trừ hàn thấp . Các thầy thuốc thường dùng hoa đã được phơi khô làm thuốc lợi tiểu, làm ra mồ hôi, chữa phù trong hội chứng thận hư, chữa viêm đau khớp. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra thành phần hoá học trong hoa cơm cháy có chứa nhóm: Flavonoid, Anthocyanin, Triterpen và triterpenoid, acid béo tự do và ankan với tác dụng được chứng minh có khả năng chống viêm, chống oxy hoá và tăng cường miễn dịch.

    Cơm Cháy (Hoa)

  • Cơm Cháy (Lá)


    Cơm cháy (Lá) có tên khoa học là Folium Sambuci javanicae, thuộc loài Sambucus javanica Blume, họ Sambucaceae. Cây mọc hoang và được trồng ở hầu khắp đất nước ta. Theo y học cổ truyền, lá cây cơm cháy có tác dụng lợi tiểu, tiêu ung, tiêu thũng, nhuận tràng, chi thống. Các thầy thuốc thường dùng lá cây cơm cháy để chữa viêm thận, phù thũng, sang chấn đụng dập, gãy xương, ngã tổn thương, nhuận tràng, lở ngứa, eczema. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra thành phần hoá học trong lá cơm cháy có chứa nhóm: Flavonoid, glycosid, anthracton glycosid, saponin, triterpenoid, tanin, alkaloid với tác dụng dược lý được chứng minh có khả năng chống viêm tốt, kháng khuẩn- virus, kích thích miễn dịch và nhuận tràng.

    Cơm Cháy (Lá)

  • Cúc Gai (Quả)


    Cây cúc gai (Silybum marianum (L.) Gaertn) hay còn được gọi là kế sữa, thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang có nguồn gốc từ Địa Trung Hải, hiện có mặt ở nhiều nơi trên thế giới như: Trung Âu, Bắc Phi, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Mỹ… Cây kế sữa ở Việt Nam rất hiếm được tìm thấy. Trong y học cổ truyền, cây kế sữa được sử dụng để bảo vệ gan, hỗ trợ tiêu hóa và làm dịu các triệu chứng viêm. Tác dụng dược lý của cây kế sữa là để điều trị các vấn đề về gan như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ. Thành phần hóa học chính của cây kế sữa là silymarin. Silymarin là một hỗn hợp các flavonoid có tác dụng bảo vệ gan rất mạnh.

    Cúc Gai (Quả)

  • Cúc Hoa Vàng (Cụm Hoa)


    Cúc hoa vàng có tên khoa học là Chrysanthemum indicum L., thuộc họ Cúc (Asteraceae). Phân bố trên thế giới tại China North-Central, China South-Central, China Southeast, East Himalaya, Inner Mongolia, Japan, Korea, Laos, Manchuria, Nepal, Taiwan, Vietnam. Ở Việt Nam được trồng nhiều tại các làng Nghĩa Trai (Hưng Yên), Nhật Tân (Hà Nội) và Tế Tiêu (Hà Tây). Trong dân gian cây được dùng làm thuốc chữa các chứng nhức đầu, đau mắt, chảy nước mắt, cao huyết áp, sốt, thanh nhiệt giải độc, kháng khuẩn, chống viêm. Trong cây chứa nhiều hoạt chất như flavonoid (Luteolin), vitamin A và tinh dầu.

    Cúc Hoa Vàng (Cụm Hoa)

  • Dạ Cầm (Toàn Cây)


    Dạ Cầm có tên khoa học là Hedyotis capitellata Wall, ex G. Don, thuộc họ Cà Phê (Rubiaceae). Trên thế giới, cây phân bố ở Assam, Bangladesh, Borneo, Cambodia, China South-Central, Jawa, Laos, Malaya, Myanmar, Philippines, Thailand, Vietnam. Tại Việt Nam cây mọc hoang ở nhiều vùng rừng núi tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Hà Tây nhưng chưa nơi nào đặt vấn để trồng trọt. Cây được sử dụng trong dân gian để giảm đau, trung hoà axit trong dạ dày, bớt ợ chua, vết loét se lại, bệnh nhân có cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng, điều trị viêm lưỡi, loét lưỡi và họng. Cây chứa các thành phần như flavonoid, tanin, saponin.

    Dạ Cầm (Toàn Cây)

  • Đại (Hoa)


    Cây Đại (Plumeria rubra L.) là một loại dược liệu có bộ phận dùng là hoa (Flos Plumeriae rubrae), thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Trên thế giới, cây được phân bố ở một số nước phía Nam châu Á và Mỹ La – tinh. Ở Việt Nam, cây rất hay được trồng làm cảnh quanh chùa đền và các công viên. Theo dân gian, hoa đại dùng làm thuốc chữa họ, có thể dùng làm thuốc uống chữa bệnh huyết hữu (hemophilia). Trong hoa đại, người ta tìm thấy nhóm alcaloid, iridoid, một ít tinh dầu mùi thơm mát.Tác dụng dược lý của hoa đại là hạ huyết áp.

    Đại (Hoa)

  • Đại Hoàng (Thân Rễ)


    Thân rễ Đại hoàng (Rheum palmatum L.) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Được phân bố ở Trung Quốc, Mông Cổ, Việt Nam, Colombia, Anh. Ở Việt Nam phân bố khắp cả nước, thích hợp ở độ cao trên 1000m. Theo dân gian, dùng chữa hạ lỵ, ứ huyết, kinh bế thuỷ thũng, thấp nhiệt gây vàng da, ung thũng đinh đọc. Hiện nay dùng với liều nhẹ làm thuốc chữa kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, hay đau bụng. Trong thân rễ Đại Hoàng người ta tìm thấy aloe-emodin, rhein, cmodin, chrysophanol, physcion.

    Đại Hoàng (Thân Rễ)

  • Dâm Dương Hoắc


    Dâm dương hoắc, tên khoa học Herba Epimedii, thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae), là dược liệu quý phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số vùng núi ở Việt Nam. Trong y học cổ truyền, dâm dương hoắc được coi là vị thuốc bổ dương, có vị ngọt, tính ấm, quy vào kinh can và thận, thường dùng để tăng cường sinh lực, điều trị liệt dương, kinh nguyệt không đều, đau lưng, và yếu gối. Tác dụng dược lý cho thấy dâm dương hoắc có tác dụng tăng cường nội tiết tố sinh dục, cải thiện tuần hoàn máu, chống loãng xương, bảo vệ thần kinh và chống oxy hóa. Thành phần hóa học chính gồm flavonoid (đặc biệt là icariin – biomarker quan trọng), alkaloid, saponin và polysaccharide, đóng vai trò chính trong các tác dụng dược lý của dược liệu này.

    Dâm Dương Hoắc

  • Đan Sâm (Rễ Và Thân Rễ)


    Bạc hà (Herba Menthae) là toàn cây của cây bạc hà (Mentha arvensis L.), thuộc họ Bạc Hà (Lamiaceae). Bạc hà phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây mọc phổ biến và thường được trồng tại nhiều nơi để làm thuốc. Theo tài liệu cổ, bạc hà có vị cay, tính mát, quy vào kinh phế và can, được dùng để giải nhiệt, chữa cảm mạo, nhức đầu, cổ họng sưng đau, và các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Bạc hà chứa nhiều thành phần hóa học như nhóm diterpenoids (tanshinones), axit phenolic (axit salvianolic, axit rosmarinic), cùng hoạt chất chính là tanshinone IIA, có tác dụng tương tự vitamin K.

    Đan Sâm (Rễ Và Thân Rễ)

  • Đảng Sâm (Rễ)


    Rễ Đẳng sâm (Radix Codonopsis) là rễ khô của cây đẳng sâm (Codonopsis pilosula (Franch.) Nannf.), thuộc họ Hoa Chuông (Campanulaceae). Đẳng sâm phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, và được trồng tại một số vùng miền núi ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, đẳng sâm có vị ngọt, tính bình, quy vào kinh tỳ và phế, được dùng để bổ trung ích khí, kiện tỳ và ích phế, điều trị tỳ phế hư nhược, khó thở, tim đập mạnh, chán ăn, phân lỏng, ho suyễn, nội nhiệt và tiêu khát (đái tháo đường). Rễ đẳng sâm chứa nhiều thành phần hóa học như alkaloids, flavonoids, polysaccharides, triterpenoids và lignans, với hoạt chất chính là lobetyolin, có tác dụng hạ huyết áp và tăng đường huyết.

    Đảng Sâm (Rễ)

  • Đảng Sâm Việt Nam (Rễ)


    Đảng sâm Việt Nam [Codonopsis javanica (Blume.) Hook.f.] thuộc họ Campanulaceae (Hoa chuông). Cây Đảng sâm rừng ở Việt Nam phân bố chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trên thế giới cây đảng sâm được phân bố ở Assam, Bangladesh, Trung Quốc Bắc Trung Bộ, Trung Quốc Nam Trung Bộ, Trung Quốc Đông Nam Bộ, Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam... Đảng sâm có thể dùng thay thế nhân sâm trong các bệnh thiếu máu, da vàng, bệnh bạch huyết, viêm thượng thận, nước tiểu có albumin, chân phù đau, ngoài ra còn dùng làm thuốc bổ dạ dày. Chiết xuất Đảng sâm được cho là có tác dụng ổn định nồng độ đường huyết, ảnh hưởng tới huyết cầu và có tác dụng hạ huyết áp. Rễ của cây Đảng sâm chứa tinh dầu, đường, chất béo và alkaloid.

    Đảng Sâm Việt Nam (Rễ)

  • Đảng Sâm Việt Nam Chế


    Đảng sâm Việt Nam chế có tên khoa học là Radix Codonopsis javanicae praeparata là phiến thuốc đã được chế biến bằng phương pháp chưng hoặc hấp, đã phơi hay sấy khô của rễ cây Đảng sâm Việt Nam [Codonopsis javanica (Blume.) Hook.f.] thuộc họ Campanulaceae (Hoa chuông). Cây Đảng sâm rừng ở Việt Nam phân bố chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trên thế giới cây đảng sâm được phân bố ở Assam, Bangladesh, Trung Quốc Bắc Trung Bộ, Trung Quốc Nam Trung Bộ, Trung Quốc Đông Nam Bộ, Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam... Đảng sâm có thể dùng thay thế nhân sâm trong các bệnh thiếu máu, da vàng, bệnh bạch huyết, viêm thượng thận, nước tiểu có albumin, chân phù đau, ngoài ra còn dùng làm thuốc bổ dạ dày. Chiết xuất Đảng sâm được cho là có tác dụng ổn định nồng độ đường huyết, ảnh hưởng tới huyết cầu và có tác dụng hạ huyết áp. Rễ của cây Đảng sâm chứa tinh dầu, đường, chất béo và alkaloid.

    Đảng Sâm Việt Nam Chế

  • Đăng Tâm Thảo (Ruột Thân)


    Đăng tâm thảo (Medulla Junci Effusi) là ruột thân đã phơi hoặc sấy khô của cây bấc đèn (Juncus effusus L.), thuộc họ Bấc (Juncaceae). Cây bấc đèn phân bố rộng rãi trên thế giới từ châu Á, châu Âu đến Bắc Mỹ, và được trồng tại các vùng ẩm ướt ở Việt Nam như Nam Định, Hà Nam. Theo y học cổ truyền, đăng tâm thảo có vị nhạt, tính hàn, đi vào kinh tâm và tiểu trường, thường được sử dụng để thanh tâm, giải nhiệt, lợi tiểu tiện, và điều trị các chứng như tâm phiền mất ngủ, lở miệng, tiểu tiện ít, đau nhức. Thành phần hóa học gồm các nhóm Pyrenes, Phenanthrenes, hợp chất chứa oxy, acid carboxylic và dẫn xuất, steroid và dẫn xuất, lipid prenol, indoles và dẫn xuất, benzene và dẫn xuất, benzoxepines, acid cinnamic và dẫn xuất, flavonoid

    Đăng Tâm Thảo (Ruột Thân)

  • Đào (Hạt)


    Đào nhân (Semen Pruni) là hạt lấy ở quả chín của cây Đào [Prunus persica (L.) Bätsch] hoặc cây Sơn đào [Prunus persica Batsch var. davidiana Maximowicz], thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc và hiện nay được trồng rộng rãi ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo y học cổ truyền, hạt đào có công năng hoạt huyết, khứ ứ, và nhuận tràng, thường được sử dụng để điều trị các chứng như vô kinh, mất kinh, sưng đau do sang chấn và táo bón. Hạt đào còn có tác dụng chữa đau đầu, đau tai, giảm đau, chống viêm, trị ho, long đờm, chữa ung thư, táo bón, đau bụng, khó tiêu, hỗ trợ lợi tiểu, an thần và điều trị tăng huyết áp. Hạt đào chứa nhiều thành phần hóa học quan trọng như glycoside cyanogenic, dầu béo, protein, acid amin và tannin.

    Đào (Hạt)

  • Dâu (Cành)


    Tang chi (Ramulus Mori albae) là cành của cây dâu tằm (Morus alba L.) thuộc họ Moraceae. Morus alba L. có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đã được di thực vào Việt Nam từ lâu, hiện nay được trồng ở khắp nơi, một số bộ phận được khai thác dùng làm thuốc. Trong cành dâu có các flavoloid như morin, dihydromorin, dihydrokaempferol, mulberrin, mulberrochromen, cyclomulberrin và cyclomulberrochromen. Ngoài ra trong cành còn có tetrahydroxybenzophenon, maclurin, acid betulinic. Mullberrin và chất chiết của cành dâu non có tác dụng làm trắng da do ức chế enzym tyrosinase. Theo tài liệu cổ, cành dâu vị đắng, tính bình, vào kinh can. Trong y học cổ truyền tang chi được dùng để làm thuốc chữa viêm khớp, tay chân tê bại.

    Dâu (Cành)

  • Dâu (Lá)


    Tang diệp (Folium Mori albae) là lá của cây dâu tằm (Morus alba L.) thuộc họ Moraceae. Morus alba L. có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đã được di thực vào Việt Nam từ lâu, hiện nay được trồng ở khắp nơi, một số bộ phận được khai thác dùng làm thuốc. Trong lá dâu có các flavoloid như quercetin, moracetin, quercitrin, isoquercitrin, astragalin, rutin, roseosid và các dẫn chất prenylflavan, kaempferol. Trong các hợp chất alcaloid có trong lá dâu tằm thì 1-deoxynojirimycin có hàm lượng cao nhất. Ngoài ra có tanin, chất caroten, vitamin C, cholin, adenin, đường, calci malat, calci carbonat và rất ít tinh dầu. Dịch chiết lá dâu có tác dụng hạ đường huyết. Các flavonoid có tác dụng chống oxy hoá và làm giảm các tổn thương do xơ cứng mạch. Chất có tác dụng chính trong xơ cứng mạch là quercetin 3-(6-malonylglucosid). Dịch chiết lá dâu còn có tác dụng ức chế enzym tyrosinase có thể ứng dụng trong mỹ phẩm làm trắng da. Y học cổ truyền dùng lá dâu làm thuốc chữa đường hô hấp trên, ho khan, chóng mặt, nhức đầu, viêm mắt, mắt mờ. Ngày dùng 6-18g.

    Dâu (Lá)

  • Dâu (Quả)


    Dâu (Quả) (Fructus Mori albae) là quả kép chín đỏ, phơi khô của cây Dâu tằm (Morus alba L.), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Dược liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã được di thực vào Việt Nam từ lâu, hiện nay được trồng rộng rãi trên khắp cả nước. Theo kinh nghiệm dân gian, quả dâu tằm được sử dụng để bổ thận, sáng mắt, bổ toàn thân, hỗ trợ tiêu hóa, và chữa các chứng như kém ngủ, râu tóc sớm bạc. Liều dùng thông thường từ 12-20g dưới dạng sắc hoặc ngâm rượu. Thành phần hóa học của quả dâu bao gồm Anthocyanin (cyanidin 3-rutinosid, cyanidin 3-glucosid), vitamin B1, B2, C, và đường.

    Dâu (Quả)

  • Dâu (Vỏ Rễ)


    Dâu (Vỏ rễ) (Cortex Mori albae radicis) là vỏ rễ đã cạo lớp bần, phơi hay sấy khô của cây Dâu tằm (Morus alba L-), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Dược liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã được di thực vào Việt Nam từ lâu. Trong dân gian, vỏ rễ dâu tằm thường được sử dụng để làm thuốc lợi tiểu tiện, chữa các bệnh như thủy thũng, ho lâu ngày, hen, ho có đờm, băng huyết, sốt, và cao huyết áp. Liều dùng thông thường từ 6-18g mỗi ngày, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Thành phần hóa học chính của vỏ rễ dâu tằm bao gồm flavonoid, coumarin, benzofuran, acid betulinic, tanin, ẞ-amyrin, polysaccarid, và một số hợp chất khác.

    Dâu (Vỏ Rễ)

  • Dâu (Vỏ Rễ)


    Dâu (Vỏ rễ) (Cortex Mori albae radicis) là vỏ rễ đã cạo lớp bần, phơi hay sấy khô của cây Dâu tằm (Morus alba L-), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Dược liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã được di thực vào Việt Nam từ lâu. Trong dân gian, vỏ rễ dâu tằm thường được sử dụng để làm thuốc lợi tiểu tiện, chữa các bệnh như thủy thũng, ho lâu ngày, hen, ho có đờm, băng huyết, sốt, và cao huyết áp. Liều dùng thông thường từ 6-18g mỗi ngày, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Thành phần hóa học chính của vỏ rễ dâu tằm bao gồm flavonoid, coumarin, benzofuran, acid betulinic, tanin, ẞ-amyrin, polysaccarid, và một số hợp chất khác.

    Dâu (Vỏ Rễ)

  • Dâu (Vỏ Rễ)


    Dâu (Vỏ rễ) (Cortex Mori albae radicis) là vỏ rễ đã cạo lớp bần, phơi hay sấy khô của cây Dâu tằm (Morus alba L-), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Dược liệu có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã được di thực vào Việt Nam từ lâu. Trong dân gian, vỏ rễ dâu tằm thường được sử dụng để làm thuốc lợi tiểu tiện, chữa các bệnh như thủy thũng, ho lâu ngày, hen, ho có đờm, băng huyết, sốt, và cao huyết áp. Liều dùng thông thường từ 6-18g mỗi ngày, dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Thành phần hóa học chính của vỏ rễ dâu tằm bao gồm flavonoid, coumarin, benzofuran, acid betulinic, tanin, ẞ-amyrin, polysaccarid, và một số hợp chất khác.

    Dâu (Vỏ Rễ)

  • Đậu Đen (Hạt)


    Đậu đen (Hạt) (Semen Vigna unguiculata) là hạt của cây đậu đen (Vigna unguiculata subsp. unguiculata), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Đậu đen phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi, như Angola, Nigeria, Kenya, và được trồng rộng rãi tại nhiều quốc gia như Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan, và Brazil. Theo y học cổ truyền, đậu đen có vị ngọt, tính bình, quy vào kinh thận, thường được dùng để trừ phong, thanh thấp nhiệt, lương huyết, giải độc, lợi tiểu, tư âm, bổ thận, sáng mắt, và chữa phù thũng do nhiệt độc. Tác dụng dược lý của đậu đen bao gồm chống viêm, giảm đau, lợi tiểu, hỗ trợ tiêu hóa, điều hòa huyết áp, và giảm cholesterol. Thành phần hóa học chính của đậu đen là anthraquinones, có tác dụng kháng viêm và chống oxy hóa, cùng với protein, carbohydrate, vitamin, và khoáng chất, giúp bồi bổ cơ thể và nâng cao sức khỏe.

    Đậu Đen (Hạt)

  • Đậu Ván Trắng (Hạt)


    Đậu ván trắng (Hạt) (Semen Lablabi purpurei) là hạt của cây đậu ván trắng (Lablab purpureus (L.) Sweet), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Đậu ván trắng phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi như Angola, Ghana, Nigeria, và được trồng rộng rãi tại Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan, Brazil, và nhiều nơi khác. Theo y học cổ truyền, đậu ván trắng có vị ngọt, tính bình, quy vào kinh tỳ và vị, thường được dùng để kiện tỳ hòa trung, giải thử hóa thấp, giải độc rượu, và hỗ trợ điều trị các bệnh về tiêu hóa như nôn mửa, tỳ vị hư nhược, và đại tiện lỏng. Tác dụng dược lý của đậu ván trắng bao gồm kháng viêm, giải độc, hỗ trợ tiêu hóa, chống ngộ độc thực phẩm, và viêm dạ dày ruột cấp tính. Thành phần hóa học chính gồm flavonoid, alkaloid, và saponin.

    Đậu Ván Trắng (Hạt)

  • Đậu Ván Trắng (Hạt)


    Đậu ván trắng (Hạt) (Semen Lablabi purpurei) là hạt của cây đậu ván trắng (Lablab purpureus (L.) Sweet), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Đậu ván trắng phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi như Angola, Ghana, Nigeria, và được trồng rộng rãi tại Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan, Brazil, và nhiều nơi khác. Theo y học cổ truyền, đậu ván trắng có vị ngọt, tính bình, quy vào kinh tỳ và vị, thường được dùng để kiện tỳ hòa trung, giải thử hóa thấp, giải độc rượu, và hỗ trợ điều trị các bệnh về tiêu hóa như nôn mửa, tỳ vị hư nhược, và đại tiện lỏng. Tác dụng dược lý của đậu ván trắng bao gồm kháng viêm, giải độc, hỗ trợ tiêu hóa, chống ngộ độc thực phẩm, và viêm dạ dày ruột cấp tính. Thành phần hóa học chính gồm flavonoid, alkaloid, và saponin.

    Đậu Ván Trắng (Hạt)

  • Đậu Xanh (Hạt)


    Cây đậu xanh (Vigna radiata (L.) R.Wilczek) thuộc họ Đậu (Fabaceae). Phân bố rộng rãi ở Việt Nam, đậu xanh chủ yếu được trồng ở Đồng bằng Bắc Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên. Trong y học cổ truyền, đậu xanh được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu và chống viêm. Cây có giá trị dinh dưỡng cao với các thành phần chính là protein, carbohydrates, chất béo, chất xơ, vitamin và khoáng chất.

    Đậu Xanh (Hạt)

  • Dây Đau Xương (Thân)


    Dây đau xương (Caulis Tinosporae sinensis) là thân đã thái phiến phơi hay sấy khô của cây Dây đau xương [Tinospora sinensis (Lour.) Merr.], thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Cây dây đau xương phân bố rộng rãi tại Việt Nam, có nguồn gốc từ Nam Á, Đông Nam Á, và Trung Quốc, đồng thời được di thực đến Pakistan, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan. Tại Ấn Độ, dược liệu được dùng để đắp lên vết rắn cắn và sắc uống để điều trị nọc độc. Ở Trung Quốc, toàn bộ cây bỏ rễ và quả được sử dụng để chữa phong thấp, viêm mạch máu, trĩ, vết thương do dao, đạn, và còn được dùng để diệt chấy rận. Thành phần hóa học chính của cây bao gồm saponin và alkaloid.

    Dây Đau Xương (Thân)

  • Dây Thìa Canh (Dây, Lá)


    Dây thìa canh (Caulis et folium Gymnemae sylvestris) là phần cành và lá phơi hay sấy khô của cây Dây thìa canh (Gymnema sylvestre (Retz.) R. Br. ex Schult.], thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae). Cây phân bố chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á. Trong dân gian ở Ấn Độ, dây thìa canh dùng để đắp lên vết cắn của rắn và sắc uống để trị nọc độc. Ở Trung Quốc, toàn bộ cây, bao gồm rễ và quả, được dùng để chữa phong thấp, viêm mạch máu, trĩ, vết thương do dao đạn và còn có tác dụng diệt chấy rận. Các thành phần hóa học trong cây bao gồm acid gymnemic (glucosidic), chlorophyll a và b, phytol, acid tartaric, các hợp chất anthraquinone, và inositol (carbohydrate).

    Dây Thìa Canh (Dây, Lá)

  • Địa Cốt Bì (Vỏ Rễ)


    Địa cốt bì là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây Câu kỳ (Lycium chinense Mill.) hay cây Ninh hạ câu kỳ (Lycium barbarum L.), họ Cà (Solanaceae). Cây phân bố rộng rãi ở Việt Nam, chủ yếu ở Hà nội, Lâm Đồng, và nhiều nơi khác. Địa cốt bì được dùng trong y học cổ truyền để bổ thận, cường gân cốt, giảm đau, kháng viêm và hạ đường huyết. Với tính vị cam, hàn, can, thận,… cây có công dụng lương huyết, trừ cốt chưng và thanh phế. Nhóm hóa học bao gồm kukoamines A và B, physalins, carotenoids và polysaccharides.

    Địa Cốt Bì (Vỏ Rễ)

  • Địa Du (Rễ)


    Địa du (Rễ) (Radix Sanguisorbae) là rễ của cây Địa du (Sanguisorba officinalis), thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Địa du phân bố chủ yếu ở châu Á và châu Âu, nhưng không phải cây bản địa tại Việt Nam. Theo y học cổ truyền, Địa du có vị đắng, tính hàn, với công năng lương huyết chỉ huyết, giải độc, và liễm nhọt. Địa du được dùng để chữa các chứng đại tiểu tiện ra máu, trĩ ra máu, lỵ ra máu, băng huyết, khí hư, bỏng, và mụn nhọt. Tác dụng dược lý của Địa du bao gồm cầm máu, hỗ trợ tiêu hóa, rửa vết loét, và giảm viêm. Thành phần hóa học chính gồm tannin, saponosit, flavon, và các chất biomarker như ziyu-glycoside I và ziyu-glycoside II.

    Địa Du (Rễ)

  • Địa Liền (Thân Rễ)


    Cây địa liền có tên khoa học là Kaempferia galanga L., thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Phân bố bản địa của loài này là từ Tiểu lục địa Ấn Độ đến Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam chúng được trồng mọi nơi trên cả nước. Kinh nghiệm sử dụng dân gian ngày dùng 2 đến 4g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên, hay pha như pha chè mà uống; Địa liền 2g, quế chỉ 1g. Hai vị tán nhỏ chia làm 3 lần uống trong một ngày, mỗi lần 0,5 hay 1g bột. Dùng chữa ăn uống không tiêu, đau dạ dày, đau thần kinh. Thành phần hoá học trong địa liền có tình dầu thành phần chủ yếu là bocneola metyl, metyl p. cumaric axit etyl este, xinamic axit etyl este, pentadecan C,H,,, xinamic andehyt và xincola.

    Địa Liền (Thân Rễ)

  • Diếp Cá


    Cây Diếp Cá có tên khoa học là Houttuynia cordata Thunb. thuộc họ Lá giấp (Saururaceae). Cây có nguồn gốc từ Assam, Bangladesh, Campuchia, Trung Quốc, Đông Himalaya, Hải Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam... Tại Việt Nam cây mọc hoang ở khắp nơi ẩm thấp. Trong y học cổ truyền, dùng để chữa bệnh viêm sưng tai giữa, sưng tắc tia sữa, đau mắt đỏ có tụ máu, trĩ lòi dom, thông tiểu, chữa bệnh mụn nhọt, kinh nguyệt không đều, thanh nhiệt, giải độc. Tác dụng dược lý của cây gồm: Lợi tiểu, thông tiểu; kháng virus, kháng viêm, kháng khuẩn, kích thích da, gây phồng, làm bền mao mạch, giảm đau. Thành phần hoá học gồm có: Tinh dầu (thành phần chủ yếu là methylnonylceton (có mùi rất khó chịu), laurylaldehyd, caprylaldehyd và decanonyl acetaldehyd), Flavonoid (Quercitrin, isoquercitrin), Alkaloid (Cordalin), hoa và quả chứa chất isoquercitrin và không chứa quercetin. Độ tro trung bình là 11,4%, tro không tan trong HCl là 2,7%.

    Diếp Cá

  • Diệp Hạ Châu (Toàn Cây)


    Diệp hạ châu (Herba Phyllanthi urinariae) là toàn cây tươi hoặc đã phơi khô của cây chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria L.), thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây phân bố rộng khắp ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Từ xa xưa, người dân đã sử dụng diệp hạ châu để điều trị các bệnh về gan, mật, đường tiêu hóa. Nhờ chứa nhiều hoạt chất có lợi như Phyllanthin, Hypophyllanthin Niranthin, Nirtetralin và Phylteralin diệp hạ châu có tác dụng bảo vệ gan, chống viêm gan, hạ men gan, chống oxy hóa, giải độc, lợi tiểu, kháng khuẩn, chống viêm, giảm đường huyết.

    Diệp Hạ Châu (Toàn Cây)

  • Diệp Hạ Châu Đắng (Toàn Cây)


    Diệp hạ châu đắng (Phyllanthi amari) là toàn cây hoặc đã phơi khô của cây chó đẻ răng cưa thân xanh, thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới. Trong y học cổ truyền, Diệp hạ châu đắng được sử dụng để giải độc, lợi tiểu, trị vàng da, viêm gan. Cây có chứa nhiều hoạt chất quý như phyllanthin, hypophyllanthin,... có tác dụng kháng viêm, chống oxy hóa, bảo vệ gan và hỗ trợ điều trị các bệnh về gan mật. Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của Diệp hạ châu đắng trong điều trị các bệnh lý về gan và được ứng dụng rộng rãi trong các chế phẩm dược.

    Diệp Hạ Châu Đắng (Toàn Cây)

  • Diệp Hạ Châu Đắng (Toàn Cây)


    Diệp hạ châu đắng (Phyllanthi amari) là toàn cây hoặc đã phơi khô của cây chó đẻ răng cưa thân xanh, thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới. Trong y học cổ truyền, Diệp hạ châu đắng được sử dụng để giải độc, lợi tiểu, trị vàng da, viêm gan. Cây có chứa nhiều hoạt chất quý như phyllanthin, hypophyllanthin,... có tác dụng kháng viêm, chống oxy hóa, bảo vệ gan và hỗ trợ điều trị các bệnh về gan mật. Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của Diệp hạ châu đắng trong điều trị các bệnh lý về gan và được ứng dụng rộng rãi trong các chế phẩm dược.

    Diệp Hạ Châu Đắng (Toàn Cây)

  • Đỗ Trọng (Vỏ Thân)


    Vỏ thân cây đỗ trọng có tên khoa học Cortex Eucommiae, thuộc loài đỗ trọng Eucommia ulmoides Oliv, họ đỗ trọng - Eucommiaceae. Đỗ trọng có nguồn gốc ở Trung Quốc, phân bố thêm tại Hàn Quốc, Mỹ, và một số nước khác. Tại Việt Nam, cây được nhập về trồng thử nghiệm từ năm 1958, phù hợp với khí hậu lạnh, nhưng chưa phát triển rộng rãi. Theo y học cổ truyền, vỏ đỗ trọng có tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, an thai, hạ huyết áp. Dược liệu thường được dùng trong nhân dân để điều trị các bệnh như đau lưng, nhức mỏi xương khớp, liệt dương, di tinh, động thai, chóng mặt và tăng huyết áp. Về tác dụng dược lý, vỏ cây đỗ trọng có khả năng điều hòa miễn dịch, chống oxy hóa, chống viêm, bảo vệ gan và hệ thần kinh. Thành phần hóa học chính gồm cycloether, phenol, flavonoid, lignan, polysaccharide, sterol và nhựa thực vật.

    Đỗ Trọng (Vỏ Thân)

  • Độc Hoạt (Rễ)


    Độc hoạt có tên khoa học là Angelica pubescens Maxim thuộc họ hoa tán (Apiaceae). Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc, phân bố nhiều tại Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Độc hoạt hiện chưa có nhiều ở Việt Nam, có nơi đã dùng rễ cây tiền hồ với tên độc hoạt (Cao Bằng). Cây được nhập nội về Việt Nam và được trồng tại Sa Pa (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu), Mộc Châu (Sơn La). Theo kinh nghiệm dân gian, rễ độc hoạt được dùng trong những trường hợp đau nhức xương khớp, đau đầu. Theo các nghiên cứu hiện đại, rễ độc hoạt có tác dụng giảm đau, chống viêm hiệu quả, đồng thời có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch. Từ năm 1957, nhiều thành phần hóa học đã được báo cáo trong cây thuốc này, chủ yếu là coumarin và tinh dầu bay hơi. Đến nay, 87 hợp chất đã được phân lập từ rễ độc hoạt, bao gồm coumarin, polyen-alkyl, acid phenolic, steroid, và các nhân tố nucleoside.

    Độc Hoạt (Rễ)

  • Đơn Kim (Lá)


    Đơn Kim (Bidens pilosa L., họ Cúc - Asteraceae) là loài thực vật mọc hoang nhiều ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới, đặc biệt phổ biến tại miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Trong y học cổ truyền, Đơn Kim được biết đến với công năng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, hoạt huyết, sát trùng, và giảm đau. Với tính vị đắng, nhạt, hơi the và tính bình, dược liệu quy vào kinh Can và Thận, góp phần quan trọng trong điều trị nhiều bệnh lý dân gian và y học cổ truyền. Cây được sử dụng để chữa các bệnh như cảm mạo, viêm họng, đau dạ dày, tiêu chảy, lỵ, dị ứng, mày đay, và các vết thương do côn trùng hoặc rắn cắn. Lá tươi thường được giã nát để đắp chữa đau mắt, dùng tắm giảm mẩn ngứa, trong khi hoa ngâm rượu hỗ trợ chữa đau răng. Dược liệu này chứa nhiều nhóm hợp chất quan trọng như flavonoid, acetylenic, phenylpropanoid, và terpenoid, mang lại nhiều tác dụng dược lý.

    Đơn Kim (Lá)

  • Đơn Lá Đỏ


    Cây Đơn Lá Đỏ có tên khoa học là Excoecaria cochinchinensis Lour., thuộc họ Euphorbiaceae. Cây phân bố tự nhiên ở nhiều khu vực Đông Nam Á như Trung Quốc, Lào, Malaysia, Myanmar, Đài Loan, Thái Lan. Tại Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi. Trong y học cổ truyền, dược liệu này có tác dụng thanh nhiệt giải độc, khu phong trừ thấp, lợi tiêu và giảm đau. Cây thường được sử dụng để chữa mụn nhọt, mẩn ngứa, ban chẩn mày đay, đi ỉa lỏng lâu ngày và đại tiện ra máu. Thành phần hóa học của cây bao gồm flavonoid (như quercetin, kaempferol), terpenoid và tannin.

    Đơn Lá Đỏ

  • Dừa Cạn (Lá)


    Folium Catharanthi rosei là lá phơi hay sấy khô của cây Dừa cạn [Catharanthus roseus (L.) G. Don], họ Trúc đào (Apocynaceae). Có nguồn gốc từ Madagascar. Cây được trồng và phát triển ở nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm Ấn Độ, Đông Nam Á, châu Phi, Trung Mỹ, và Nam Mỹ. Được ghi nhận phân bố tại hơn 100 quốc gia. Tại Việt Nam, phát triển mạnh ở các tỉnh ven biển và nhiều nơi trong cả nước. Ở dân gian, lá và hoa được sử dụng làm thuốc điều trị đái tháo đường, áp xe, viêm loét, và làm dịu vết thương; toàn cây để hỗ trợ điều trị bệnh sốt rét và cao huyết áp.Trong y học cổ truyền được sử dụng để chữa rối loạn kinh nguyệt, làm thuốc lợi tiểu và an thần. Vinblastine và vincristine là các alkaloid chính trong lá dừa cạn, có tác dụng ức chế sự phân bào, được sử dụng trong điều trị ung thư hạch, ung thư bạch cầu, và một số loại ung thư khác. Ngoài ra, lá dừa cạn còn giúp hạ đường huyết, giãn mạch, giảm huyết áp, kháng khuẩn, chống viêm, và hỗ trợ giấc ngủ. Về thành phần hóa học, lá dừa cạn chứa các nhóm hoạt chất như alkaloid indole (vinblastine, vincristine, vindoline, catharanthine), flavonoid (quercetin, kaempferol), triterpenoid, tannin, cùng một số carbohydrate và saponin.

    Dừa Cạn (Lá)

  • Dừa Cạn (Rễ)


    Radix Catharanthi rosei là rễ phơi hay sấy khô của cây Dừa cạn [Catharanthus roseus (L.) G. Don], họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây có nguồn gốc từ Madagascar, nhưng hiện nay đã được trồng rộng rãi ở nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới, bao gồm các quốc gia như Ấn Độ, Việt Nam, Indonesia, Mỹ, và nhiều vùng khác. Tại Việt Nam, cây gặp nhiều ở các tỉnh ven biển nhưng có thể trồng ở mọi nơi. Trong y học dân gian và y học cổ truyền, rễ dừa cạn được sử dụng chủ yếu để điều trị các bệnh liên quan đến huyết áp cao, co giật, và các rối loạn thần kinh. Ngoài ra, rễ dừa cạn còn có tác dụng kháng khuẩn và kháng viêm, được dùng để làm dịu các cơn ho, viêm loét, và các bệnh về da. Tác dụng dược lý của dược liệu này đã được nghiên cứu và chứng minh có hiệu quả trong việc hạ huyết áp, giãn mạch, an thần, chống co giật, kháng khuẩn và kháng viêm. Một số nghiên cứu còn chỉ ra rằng các alkaloid trong rễ cây như ajmalicine, serpentine, và vindoline có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Thành phần hóa học chính trong rễ dừa cạn gồm các alkaloid (ajmalicine, serpentine, vindoline, catharanthine), flavonoid, triterpenoid, tannin, và carbohydrate. Các alkaloid ajmalicine và serpentine thường được sử dụng làm chất chuẩn trong nghiên cứu và điều chế thuốc.

    Dừa Cạn (Rễ)

  • Đương Quy (Rễ)


    Đương quy có tên khoa học là Angelica sinensis (Oliv.) Diels. Thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Trên thế giới, cây được phân bố ở Trung Quốc, nội Mông Cổ. Tại Việt Nam, cây được trồng ở Sapa và các vùng đồng bằng ven Hà Nội. Trong đông y, người ta sử dụng đương quy để chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược, kinh nguyệt không đều, đau ở rốn, đẻ xong máu chảy mãi không ngừng. Đương quy được chứng minh có tác dụng dược lý trên tử cung và các cơ trơn; trên hiện tượng thiếu vitamin E; trên huyết áp và hô hấp; trên cơ tim và có tác dụng kháng sinh. Một số thành phần hóa học đã được phát hiện và xác định cấu trúc như: Các hợp chất thuộc nhóm Coumarins; các dẫn chất Phthalide ((z)-ligustilide; các hợp chất Phenolic (Ferulic acid); một số acid amin; một số vitamin (vitamin A, E),…

    Đương Quy (Rễ)

  • Gấc (Áo Hạt)


    Gấc (Áo hạt), tên khoa học Arillus Momordicae cochinchinensis, là phần áo đỏ bao quanh hạt của cây Gấc (Momordica cochinchinensis (Lour.) Spreng.), thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Đây là loài dây leo thân thảo, mọc hoang và được trồng phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt tại miền Bắc. Gấc có nguồn gốc ở Đông Nam Á, Nam-Trung Trung Quốc, Ấn Độ và các đảo Đông Nam Á, đã được di thực đến một số khu vực như quần đảo Andaman, Nicobar và Trinidad-Tobago. Trong y học cổ truyền, dược liệu có vị ngọt, tính bình, quy vào kinh Can, Tỳ, Vị, được sử dụng để bổ tỳ, thanh can, sáng mắt, chữa quáng gà, khô mắt, suy dinh dưỡng ở trẻ em và hỗ trợ phụ nữ mang thai, cho con bú. Cây có tác dụng làm lành vết thương, hỗ trợ tăng cân, bảo vệ nhiễm sắc thể và cải thiện thị lực.Thành phần hóa học chính gồm carotenoid (lycopen, β-caroten), saponin (momordicin), vitamin E, acid béo (oleic, linoleic, stearic) và polyphenol.

    Gấc (Áo Hạt)

  • Gấc (Hạt)


    Cây Gấc (còn gọi là mộc tất tử, thổ mộc miết,...) có tên khoa học là Momordica cochinchinensis (Lour.) Spreng. thuộc họ Cucurbitaceae - Bí. Trên thế giới, gấc có nguồn gốc từ Assam, Bangladesh, Borneo, Cambodia,... và được di thực tới Andaman Is., Nicobar Is., Trinidad-Tobago. Ở Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, nhiều nhất ở miền Bắc. Trong nhân dân, gấc có trong các bài thuốc chữa trĩ lòi dom, chữa sưng vú. Cây gấc có tác dụng dược lý là làm chóng lành vết thương, giúp tăng cân, có tác dụng giống vitamin A. Thành phần hóa học trong cây gấc gồm: trong nhân hạt gấc có 6% nước, 2,9% chất vô cơ, 55,3% chất béo, 16,6% chất protid, 2,9% đường toàn bộ, 1,8% tanin, 2,8% xenluloza và 11,7% chất không xác định được. Ngoài ra còn có các men photphataza. invectaza và peroxydaza. Dầu gấc có chỉ số axit 2, chỉ số ist 72, gồm 44,4% axit oleic, 7,69% axit stearic, 33,8% axit panmitic, 14,7% axit linoleic là một loại vitamin F. Caroten. Một số chất vi lượng cần thiết cho cơ thể: đồng, sắt, coban và đặc biệt kẽm, selenium

    Gấc (Hạt)

  • Gai (Rễ)


    Dược liệu Gai (Rễ) – Radix Boehmeriae niveae lấy từ Cây Gai - Boehmeria nivea (L.) Gaudich, thuộc họ Gai (Urticaceae). Cây phân bố rộng rãi tại Đông Nam Á, Đông Á và di thực đến nhiều nơi như Mỹ, Nam Mỹ, châu Phi; tại Việt Nam phân bố khắp nơi. Trong y học cổ truyền, dược liệu được dùng để an thai, chữa sa dạ con, lợi tiểu, thanh nhiệt giải độc, chỉ huyết và điều trị các bệnh như động thai ra máu, huyết lâm, thổ huyết, mụn nhọt. Cây có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, diệt nấm và kích thích tiết mật. Dược liệu có vị ngọt, tính hàn, quy kinh can và tâm, chứa các hoạt chất chính như flavonoid, saponin, polysaccharid và hợp chất phenolic như acid chlorogenic.

    Gai (Rễ)

  • Giảo Cổ Lam


    Giảo cổ lam (Cổ yếm, thư tràng năm lá) có tên khoa học là Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae. Trên thế giới, Giảo cổ lam phân bố ở Ấn Độ, Xri Lanca, Mianma, Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Thái Lan, Lào và bán đảo Mã Lai. Ở nước ta, cây mọc từ Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hòa Bình, Thừa Thiên-Huế, Kon Tum vào tới Đồng Nai. Ở Vân Nam (Trung Quốc), thân dạng rễ và toàn cây dùng trị viêm khí quản mạn tính. Có nơi, như ở Quảng Tây, người ta dùng trị ỉa chảy và dùng ngoài trị rắn cắn. Giảo cổ lam có tác dụng dược lý là tiêu viêm, giải độc, chữa ho, tiêu đờm. Thành phần hóa học trong cây Giảo cổ lam gồm gypenoside 1-52 trong đó có 3, 4, 8, 12; ngoài ra còn có flavone, các loại đường.

    Giảo Cổ Lam

  • Gừng (Thân Rễ)


    Cây Gừng có tên khoa học là Zingiber officinale Rose, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Tại Việt Nam, gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước và xuất khẩu. Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp sự tiêu hóa, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo, phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng. Tác dung dược lý của gừng: dịch chiết gừng khô có tác dụng chống nôn; chiết xuất gừng có tác dụng chống viêm, giảm đau; ngoài ra, gừng còn ức chế thần kinh trung ương, làm giảm vận động tự nhiên và tăng thời gian gây ngủ của thuốc ngủ barbituric. Gừng phơi khô chứa: tinh bột (>50%), protein (9%), lipid (6-8%) gồm triglyceride, acid phosphatidic, lecithin và các acid tự do; chất xơ (5.9%), tro (5.7%), canxi (0.1%), photpho (0.15%), sắt (0.011%), natri (0.03%), kali (1.4%), vitamin A (175 IU/100g), B1 (0.05mg/100g), vitamin B2 (0.13mg/100g), niacin (1.9mg/100g), vitamin C (12mg/100g), và khoảng 380kcal/100g.

    Gừng (Thân Rễ)

  • Gừng (Thân Rễ)


    Cây Gừng có tên khoa học là Zingiber officinale Rose, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Tại Việt Nam, gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước và xuất khẩu. Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp sự tiêu hóa, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo, phong hàn, làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng. Tác dung dược lý của gừng: dịch chiết gừng khô có tác dụng chống nôn; chiết xuất gừng có tác dụng chống viêm, giảm đau; ngoài ra, gừng còn ức chế thần kinh trung ương, làm giảm vận động tự nhiên và tăng thời gian gây ngủ của thuốc ngủ barbituric. Gừng phơi khô chứa: tinh bột (>50%), protein (9%), lipid (6-8%) gồm triglyceride, acid phosphatidic, lecithin và các acid tự do; chất xơ (5.9%), tro (5.7%), canxi (0.1%), photpho (0.15%), sắt (0.011%), natri (0.03%), kali (1.4%), vitamin A (175 IU/100g), B1 (0.05mg/100g), vitamin B2 (0.13mg/100g), niacin (1.9mg/100g), vitamin C (12mg/100g), và khoảng 380kcal/100g.

    Gừng (Thân Rễ)

  • Hạ Khô Thảo (Cụm Quả)


    Hạ Khô Thảo (Prunella vulgaris L.) thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae)Trên thế giới, cây mọc ở những nước Âu, Á có những vùng núi cao ôn đới như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc chủ yếu ở Hà Giang, Sapa và Tam Đảo. Theo đông y: cây có vị đắng, cay, tính hàn, không độc, vào hai kinh can và đởm. Có tác dụng thanh can hỏa, tán uất kết, tiêu ứ sáng mắt, làm thuốc chữa loa lịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ. Tác dụng dược lý: giảm huyết áp, chống viêm, ức chế vi khuẩm, lợi tiểu, tăng hô hấp. Hạ khô thảo có chứa tinh dầu, muối vô cơ, alkaloid, cyanidin glucoside, chất béo, tannin,. Trong đó tinh dầu có chứa khoảng 50% d-camphor, alcol fenchylic, a- và D- fenchon, acid ursolic, delphinidin,…

    Hạ Khô Thảo (Cụm Quả)

  • Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)


    Cây Hà thủ ô đỏ có tên khoa học là Fallopia multiflora Thunb Haraldson Syn và Polygonum multiflorum Thunb, thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Tại Việt Nam, hà thủ ô đỏ mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên. Cho đến nay, cây được dùng ở phạm vi một vị thuốc nhân dân làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, các bệnh về thần kinh, ích huyết khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen râu tóc. Hà thủ ô đỏ có tác dụng làm tăng lượng đường trong máu, xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng, hạ lipid máu, hạn chế sự phát triển của xơ vữa động mạch. Thành phần tan trong nước của hà thủ ô đỏ có các dẫn chất stilben glycosid như rhaponticosid: 2,3,5,4'-tetrahydroxystilben- 2-0-β -D-glucosid. Ngoài ra, hà thủ ô đỏ có nhiều tanin như: 3,3'-di-O- galloylprocyanidin-B-2, 3-O-galloyl-1-catechin, 3-O-galloyl-1-epicatechin, 3-O- galloyl-procyanidin-B-1, d-catechin, d-epicatechin và acid gallic. Trong hà thủ ô đỏ còn có các dẫn chất anthranoid với hàm lượng thấp: acid chrysophanic, emodin, physcion, chrysophanol anthron, emodin- 8-O-β-D-glucosid.

    Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)

  • Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)


    Cây Hà thủ ô đỏ có tên khoa học là Fallopia multiflora Thunb Haraldson Syn và Polygonum multiflorum Thunb, thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Tại Việt Nam, hà thủ ô đỏ mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên. Cho đến nay, cây được dùng ở phạm vi một vị thuốc nhân dân làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, các bệnh về thần kinh, ích huyết khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen râu tóc. Hà thủ ô đỏ có tác dụng làm tăng lượng đường trong máu, xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng, hạ lipid máu, hạn chế sự phát triển của xơ vữa động mạch. Thành phần tan trong nước của hà thủ ô đỏ có các dẫn chất stilben glycosid như rhaponticosid: 2,3,5,4'-tetrahydroxystilben- 2-0-β -D-glucosid. Ngoài ra, hà thủ ô đỏ có nhiều tanin như: 3,3'-di-O- galloylprocyanidin-B-2, 3-O-galloyl-1-catechin, 3-O-galloyl-1-epicatechin, 3-O- galloyl-procyanidin-B-1, d-catechin, d-epicatechin và acid gallic. Trong hà thủ ô đỏ còn có các dẫn chất anthranoid với hàm lượng thấp: acid chrysophanic, emodin, physcion, chrysophanol anthron, emodin- 8-O-β-D-glucosid.

    Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)

  • Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)


    Cây Hà thủ ô đỏ có tên khoa học là Fallopia multiflora Thunb Haraldson Syn và Polygonum multiflorum Thunb, thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Tại Việt Nam, hà thủ ô đỏ mọc hoang ở rừng núi, nhiều nhất ở các tỉnh Tây Bắc sau đến các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai, Lai Châu, Tây Nguyên. Cho đến nay, cây được dùng ở phạm vi một vị thuốc nhân dân làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, các bệnh về thần kinh, ích huyết khỏe gân cốt, sống lâu, làm đen râu tóc. Hà thủ ô đỏ có tác dụng làm tăng lượng đường trong máu, xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng, hạ lipid máu, hạn chế sự phát triển của xơ vữa động mạch. Thành phần tan trong nước của hà thủ ô đỏ có các dẫn chất stilben glycosid như rhaponticosid: 2,3,5,4'-tetrahydroxystilben- 2-0-β -D-glucosid. Ngoài ra, hà thủ ô đỏ có nhiều tanin như: 3,3'-di-O- galloylprocyanidin-B-2, 3-O-galloyl-1-catechin, 3-O-galloyl-1-epicatechin, 3-O- galloyl-procyanidin-B-1, d-catechin, d-epicatechin và acid gallic. Trong hà thủ ô đỏ còn có các dẫn chất anthranoid với hàm lượng thấp: acid chrysophanic, emodin, physcion, chrysophanol anthron, emodin- 8-O-β-D-glucosid.

    Hà Thủ Ô Đỏ (Rễ)

  • Hà Thủ Ô Trắng (Rễ)


    Hà Thủ Ô Trắng (Streptocaulon juventas (Lour) Merг.) thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae). Trên thế giới, cây phân bố chủ yếu ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Tại Việt Nam, cây Hà Thủ Ô Trắng mọc hoang ở khắp những nơi đất đối cứng vùng Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Cây được sử dụng để chữa bệnh huyết hư máu nóng, chứng hồi hộp chóng mặt, hoa mắt, ù tai, khô khát táo bón, tóc rụng hoặc sớm bạc, lưng gối rũ mỏi. Về tác dụng dược lý, cây chưa có tài liệu nghiên cứu. Rễ củ Hà Thủ Ô Trắng có chứa nhiều tinh bột và Alkaloid

    Hà Thủ Ô Trắng (Rễ)

  • Hậu Phác (Vỏ)


    Cây Hậu phác (Magnolia officinalis Rehd. et Wils.) hoặc cây Ao diệp hậu phác {Magnolia officinalis Rehd. et Wils var. biloba Rehd. et Wils.) thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae). Cây có nguồn gốc Trung Quốc Bắc-Trung, Trung Quốc Nam-Trung, Trung Quốc Đông Nam, Tây Tạng và ở Việt Nam đến hiện tại vẫn chưa phát hiện được. Từ xa xưa, vỏ Hậu Phác đã được sử dụng nhiều trong dân gian. Người ta thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 6, bóc lấy vỏ rễ, vỏ thân, vỏ cành. Vỏ rễ và vỏ cành phơi âm can. Vỏ thân chần qua nước sôi, vớt ra, chất đống để nơi ẩm cho đến khi bề mặt lõi có màu nâu tía hay nâu thẫm, đồ mềm, cuộn thành ống phơi khô. Từ đó bào chế thành 2 dạng là : Hậu phác phiến và khương Hậu phác. Hậu phác phiến: Cạo sạch vỏ, rửa sạch, ủ mềm, thái lát, phơi khô. Khương Hậu phác (chê gừng): Gừng tươi nghiền nát, ép, vắt lấy nước cốt gừng; thêm một lượng nhỏ nước vào bã gừng, ép lấy nước gừng lần nữa; trộn đều nước gừng; tẩm nước gừng với Hậu phác phiến cho thấm hết nước gừng, sao nhỏ lửa đến khô, phiến cong, vết nứt có sợi và màu nâu tía (dùng 10 kg Gừng tươi hoặc 3 kg Gừng khô cho 100 kg Hậu phác).Trong vỏ Hậu phác có 2 thành phần chính là Magnolol, Honokiol có tác dụng dược lý Kháng khuẩn, chống viêm, chống ung thư, chống sâu răng, chống bệnh bạch cầu, diệt nấm, giãn cơ, chất chống oxy hóa, an thần...

    Hậu Phác (Vỏ)

  • Hồ Tiêu (Quả)


    Hồ tiêu có tên khoa học Piper nigrum L., là một loại cây dây leo thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae). Cây có nguồn gốc từ các vùng nhiệt đới ẩm ướt ở Ấn Độ và Nam Á. Việt Nam là một trong những nước sản xuất hồ tiêu lớn trên thế giới, với các vùng trồng tập trung ở miền Nam. Hồ tiêu được sử dụng trong y học cổ truyền để điều trị các bệnh như đau bụng, khó tiêu, cảm lạnh. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng hồ tiêu có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe, bao gồm: kích thích tiêu hóa (Piperine), giảm đau, kháng khuẩn, chống oxy hóa, tăng cường hấp thu các chất dinh dưỡng. Thành phần hóa học của quả hồ tiêu khá phong phú và có giá trị, nổi bật với các hợp chất như piperine, tinh dầu, flavonoid.

    Hồ Tiêu (Quả)

  • Hoắc Hương


    Hoắc hương có tên khoa học là Pogostemon cablin (Blanco) Benth (họ Bạc hà - Lamiaceae). Cây Hoắc hương được trồng nhiều nơi ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại vùng Kim Sơn (Hà Nam), Hưng Yên. Trên thế giới cây được phân bố ở một số nước như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia và Ấn Độ. Theo kinh nghiệm sử dụng dân gian, hoắc hương được dùng trong những trường hợp ăn không ngon, sôi bụng đau bụng đi ngoài, hôi miêng. Cây còn được dùng làm thuốc chữa cảm mạo, nhức đầu, mình mẩy đau đớn, triệu chứng cảm cúm. Lá hoắc hương khô có chứa 0.5-0,6% tinh dầu, thành phần chủ yếu là long não patchouli, có tác dụng làm mạnh dạ dày, giúp ổn định tiêu hóa.

    Hoắc Hương

  • Hoài Sơn


    Củ Mài có tên khoa học là Tuber Dioscoreae persimilis, thuộc họ Củ Nâu (Dioscoreaceae). Tại Việt Nam, cây phân bố nhiều ở các tỉnh như Hà Bắc, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong y học cổ truyền, củ mài được dùng để bổ tỳ, dưỡng vị, chỉ tả, sinh tân, ích phế, bổ thận, và sáp tinh, thường được áp dụng chữa các chứng kém ăn, tiêu chảy lâu ngày, phế hư ho suyễn, di tinh, đới hạ và tiêu khát. Thành phần hóa học của củ mài gồm 63,25% chất bột, 6,75% protein, 0,45% chất béo, cùng các hợp chất như mucin, allantoin, arginin, cholin, enzym mantoza và saponin có nhân sterol. Các nghiên cứu cho thấy enzym trong củ mài hỗ trợ tiêu hóa mạnh, đặc biệt hữu ích trong chuyển hóa đường. Với tính vị ngọt, bình, củ mài không chỉ là dược liệu bổ dưỡng mà còn được dùng trong thực phẩm, góp phần quan trọng trong cả lĩnh vực y học và dinh dưỡng.

    Hoài Sơn

  • Hoàng Bá (Vỏ Thân)


    Cây Hoàng bá (Phellodendron chinense Schneid, hoặc Phellodendron amurense Rupr.) thuộc họ Cam (Rutaceae). Phân bố bản địa của loài này là từ Viễn Đông Nga đến Bắc và Đông Trung Quốc, Nhiệt độ Đông Á- là một loại cây và mọc chủ yếu ở quần xã sinh vật ôn đới sau đó di thực: Bulgaria, Connecticut, Delaware, Illinois, Maryland, Massachusetts, New Hampshire, New Jersey, New York, Ohio, Pennsylvania, Québec, Rhode I., Romania, Tajikistan...Từ xưa người dân dùng Hoàng bá để thanh nhiệt táo thấp, tư âm giáng hỏa, giải độc; chủ trị: âm hư phát sốt, xương đau âm ỉ, ra mồ hôi trộm; viêm tiết niệu; tả lỵ thấp nhiệt; hoàng đàn; mụn nhọt lở ngứa. Tác dụng dược lý của Hoàng bá là kháng khuẩn, ức chế thần kinh trung ương, diệt amip, hạ huyết áp, thuốc diệt nấm, chống viêm, chống co thắt cơ trơn trên tử cung và ruột, kháng histamin, thuốc hạ số, thuốc đối kháng calci, kháng virus, hạ cholesteron máu,... bởi nó chứa chủ yếu là các alkaloid: Berberin (C20H19O5N), Palmatin (C21H23O5N), Magnoflorin, Candicin, Phellodendrin, ngoài ra còn có các hợp chất phenolic: gồm glucosid của 5-5’ dimethoxylariciresinol 2-(p-hydroxy phenyl) ethanol và N.methylhigenamin, lionresinol syringin,...; những chất có tinh thể không chứa nitơ như obakunon C26H30O7 và obakulacton C26H30O...

    Hoàng Bá (Vỏ Thân)

  • Hoàng Cầm (Rễ)


    Rễ cây hoàng cầm (Radix Scutellariae) là một dược liệu quý trong y học cổ truyền, được chiết xuất từ rễ cây hoàng cầm (Scutellaria baicalensis), thuộc họ hoa môi (Lamiaceae). Cây phân bố chủ yếu ở khu vực châu Á, đặc biệt là khu vực Trung Quốc, Hàn Quốc, 1 số vùng ở Việt Nam, ưa khí hậu ôn đới và thường mọc ở các khu vực đất ẩm. Rễ cây hoàng cầm chứa các flavonoid như baicalin, baicalein và wogonin. Những hợp chất có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, hạt sốt, lợi tiểu, chống ung thư, an thần. Trong y học cổ truyền, rễ hoàng cầm được sử dụng để điều trị các bệnh lý về gan, tiêu hóa, viêm họng, ho, và các chứng viêm nhiễm khác.

    Hoàng Cầm (Rễ)

  • Hoàng Đằng (Thân Và Rễ)


    Hoàng đằng (Fibraurea recisa Pierre và Fibraurea tinctoria Lour.) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Cây chủ yếu phân bố ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Đông Nam Á, ưa khí hậu nóng ẩm, thường mọc trong các khu rừng nhiệt đới, rừng mưa hoặc những vùng đất ẩm ướt. Tại Việt Nam, cây Hoàng đằng thường gặp ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Rễ của cây chứa nhiều alkaloid như palmatine, ngoài ra còn có jatrorrhizin, columbamin, berberin. Có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn, kháng sinh đối với các vi khuẩn đường ruột. Thân cây cũng chứa các hợp chất có lợi cho sức khỏe, trong dân gian được sử dụng trong các bài thuốc điều trị viêm gan, tiêu chảy, các bệnh nhiễm trùng và các bệnh lý liên quan đến gan mật.

    Hoàng Đằng (Thân Và Rễ)

  • Hoàng Kỳ (Rễ)


    Hoàng Kỳ (Astragalus membranaceus (Fisch.) Bunge) thuộc họ Đậu - Fabaceae) là một cây sống lâu năm, phân bố chủ yếu ở các khu vực Trung Quốc, Mông Cổ, và một số vùng miền của Việt Nam như Sapa và Đà Lạt. Trong y học cổ truyền, Hoàng kỳ được chế biến dưới các dạng như Hoàng kỳ chích mật (kết hợp với mật ong) và Hoàng kỳ phiến (thái lát). Hoàng kỳ có tác dụng làm tăng co bóp tim, làm giãn mạch, lợi tiểu, và kháng sinh đối với vi trùng lỵ Shiga trong ống nghiệm. Thành phần hóa học chính trong Hoàng kỳ gồm cholin betain, nhiều loại axit amin, sacaroza, glucoza, tinh bột, chất nhây, gôm, hơi có phản ứng ancaloit.

    Hoàng Kỳ (Rễ)

  • Hoàng Liên (Thân Rễ)


    Hoàng liên (Coptis – Rhizoma Coptidis) là thân rễ phơi khô của nhiều loài hoàng liên chân gà như Coptis quinquesecta, Coptis sinensis Franch, Coptis teeta Wall., Coptis teetoides C. Y. Cheng v.v… đều thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Cây chủ yếu mọc ở các vùng núi cao từ 1.500-2.000m, đặc biệt tại các tỉnh Lào Cai, Sapa, và dãy núi Hoàng Liên Sơn, khu Tây Bắc Việt Nam. Trong y học cổ truyền, hoàng liên có vị đắng, tính hàn, vào các kinh tâm, tỳ, vị, can, đởm, và đại tràng, được dùng để thanh nhiệt, trừ phiền, sáng mắt, và giải độc. Tác dụng dược lý của hoàng liên rất đa dạng, bao gồm tác dụng chống vi trùng, hỗ trợ tiêu hóa, điều trị viêm dạ dày, ruột, và lỵ, giảm huyết áp, và tác dụng lên hệ tim mạch. Ngoài ra, hoàng liên còn giúp thanh nhiệt, giải độc, trị đau bụng, viêm ruột, mất ngủ, và đau mắt đỏ. Thành phần hóa học chủ yếu là các alkaloid như berberin, coptisin, worenin, và columbamin. Đặc biệt là berberin chloride và palmatine chloride.

    Hoàng Liên (Thân Rễ)

  • Hoàng Nàn (Vỏ Thân, Vỏ Cành)


    Hoàng nàn (Cortex Strychni wallichianae) thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Theo KEW, cây này được phân bố tại Nam Trung Quốc, Myanmar, Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka, và Việt Nam. Ở Việt Nam, cây mọc hoang tại các tỉnh miền Bắc như Hà Tây (Ba Vì), Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Theo y học cổ truyền, hoàng nàn có vị khổ, tính hàn, rất độc, quy vào kinh can và tỳ, với công năng trừ phong hàn thấp tý, chỉ thông, chỉ tả, và sát trùng. Dược liệu này được dùng để trị các bệnh đau nhức xương cốt, đau bụng, tiêu chảy, và ghẻ ngứa, nhưng cần chế biến kỹ để giảm độc tính. Thành phần hóa học chính của hoàng nàn là nhóm alkaloid (chiếm khoảng 9%), bao gồm strychnin, brucin, colubrin, maracurin, và pseudo-strychnin. Các hoạt chất này có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích tiêu hóa, giảm đau, hỗ trợ điều trị tê liệt và suy nhược thần kinh. Có tác dụng dược lý như cải thiện tình trạng suy nhược thần kinh, cải thiện tình trạng suy nhược thần kinh.

    Hoàng Nàn (Vỏ Thân, Vỏ Cành)

  • Hoàng Tinh (Thân Rễ)


    Thân rễ hoàng tinh (Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl) thuộc họ Mạch môn đông (Convallariaceae). Cây mọc hoang tại các rừng ẩm ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt ở Sapa, và phân bố tại Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan. Đây là loại cỏ sống lâu năm, thân rễ phát triển thành củ mập, màu vàng trắng, thân mọc thẳng, lá không cuống, hoa tím đỏ, quả mọng màu đen khi chín. Thành phần hóa học của hoàng tinh bao gồm chất nhầy, tinh bột, đường và các hợp chất có phản ứng dương tính với thuốc thử alkaloid. Trong y học cổ truyền, hoàng tinh được sử dụng để bổ khí huyết, tăng cường sức khỏe, dưỡng âm bổ phế, hỗ trợ tiêu hóa, hạ đường huyết, cải thiện trí nhớ và tăng cường hệ thần kinh, cũng như kháng viêm và chống lão hóa. Đây là một vị thuốc bổ dưỡng nhưng cần được sử dụng đúng cách để phát huy hiệu quả.

    Hoàng Tinh (Thân Rễ)

  • Hòe (Nụ Hoa)


    Hòe (nụ Hoa) có tên khoa học là Flos Styphnolobii japonici imaturi thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây được phân bố khắp cả nước. Ở các nước khác như Trung Quốc, Triều tiên, Nhật bản cũng có trồng. Theo kinh nghiệm sử dụng dân gian, Hòe được sử dụng trong những bệnh ho ra máu, đổ máu cam, tiểu tiện ra huyết, ruột chảy máu. Thành phần hóa học của hoa Hòe có Rutin thuộc nhóm Flavonoid. Rutin có hoạt tính vitamin PP, có tác dụng làm bền và làm giảm tính thấm của mao mạch, làm tăng sự bền vững của hồng cầu, làm hạ thấp trương lực cơ nhẵn, chống co thắt.

    Hòe (Nụ Hoa)

  • Hồng Hoa (Hoa)


    Hồng hoa có tên khoa học là Carthamus tinctorius L., là một loại cây thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây Hồng Hoa có nguồn gốc từ các vùng ôn đới và cận nhiệt đới, phân bố rộng khắp thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Ở nước ta, Hồng Hoa mọc nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang và một số vùng khác. Trong y học cổ truyền, Hồng Hoa thường được sử dụng để điều trị các chứng bệnh như: Bế kinh, kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, rong kinh, tụ huyết, sưng đau, bong gân, đau đầu, đau nhức xương khớp. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng hoa của Hồng hoa có nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe, bao gồm: chống viêm và giảm đau, chống đông máu, chống oxy hóa, ảnh hưởng đến bệnh loãng xương, hoạt động bảo vệ gan, tác dụng trị đái tháo đường. Hoa của cây Hồng Hoa chứa một lượng lớn các hợp chất hoạt tính sinh học, trong đó đáng chú ý là các flavonoid, axit béo, steroid và nhiều các hợp chất khác.

    Hồng Hoa (Hoa)

  • Húng Chanh (Lá)


    Húng chanh ( lá) có tên khoa học Plectranthus amboinicus (Lour.) spreng , thuộc họ Bạc hà (Lamiaceae). Cây được phân bố khắp nơi ở Việt Nam. Kinh nghiệm sử dụng dân gian là tân, ôn quy vào kinh phế, tỳ. Về công dụng có tác dụng chữa cảm cúm, ho sốt do phong hàn, nục huyết, ho gà, khản tiếng, trùng thú cắn. Thành phần hóa học chính là của tinh dầu là carvacrol và thymol. Chưa có nhiều nghiên cứu về tác dụng dược lý tuy nhiên có nghiên cứu chỉ ra tác dụng kháng sinh của tinh dầu húng chanh đối với các loại vi trùng.

    Húng Chanh (Lá)

  • Hương Gia Bì (Vỏ Rễ)


    Hương gia bì (Cortex Periplocae) là vỏ rễ phơi hoặc sấy khô của cây Hương gia bì (Periploca sepium Bunge), thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae). Loài cây này có nguồn gốc bản địa tại các khu vực như Bắc-Trung, Nam-Trung và Đông Nam Trung Quốc, Nội Mông, Mãn Châu, Primorye, Thanh Hải, Tây Tạng và Tân Cương, nhưng không phân bố tại Việt Nam. Trong y học cổ truyền, Hương gia bì thường được sử dụng để chữa các bệnh như đau lưng gối, đau gân khớp, tiểu tiện khó khăn, cũng như điều trị mụn nhọt, sang lở và hỗ trợ chấn thương gãy xương. Thành phần hóa học chính của vỏ rễ Hương gia bì bao gồm glycoside C-steroid, glycoside tim, terpenoid, tinh dầu dễ bay hơi, và axit béo.

    Hương Gia Bì (Vỏ Rễ)

  • Hương Nhu Tía


    Hương nhu tía có tên khoa học là Ocimum tenuiflorum L. hay Ocimum sanctum L. một loài cây thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Cây được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Hương nhu tía là một loại cây nhỏ, có chiều cao trung bình. Thân và cành cây thường có màu tím đặc trưng và có lông. Lá cây hình bầu dục hoặc hình mác, mép lá có răng cưa, cả hai mặt lá đều có lông. Hoa của cây có màu tím, mọc thành cụm và có mùi thơm đặc trưng như đinh hương. Trong các bài thuốc dân gian, cây hương nhu tía thường được sử dụng để chữa các bệnh như: Cảm mạo, giảm sốt, lợi thấp hành thủy, chữa đầu nhức, bụng đau, miệng nôn, thủy thũng, đi ỉa lỏng, chảy máu cam. Tinh dầu là thành phần quý giá nhất của hương nhu tía, trong đó eugenol là hoạt chất chính rất cần thiết dùng trong nha khoa và trong việc tổng hợp chất vanilin, ngoài ra trong cây còn có các thành phần hóa học khác như: Methyleugenol, Cacvacrola, Beta caryophyllene, Alpha - pinene, Beta - pinene, Acid ursolic

    Hương Nhu Tía

  • Hương Nhu Trắng (Đoạn Đầu Cành Có Hoặc Không Có Hoa


    Hương nhu trắng (tên khoa học: Ocimum gratissimum, thuộc họ Hoa môi - Lamiaceae) là một loài cây thân thảo thường cao hơn cây hương nhu tía. Lá mọc đối, có cuống, phiến lá dài 5-10cm, hình trứng nhọn, phía cuống thon, mép khía tai bèo hay có răng cưa thô: Trên gân chính của lá có lông. Hoa nhỏ mọc thành xim đơn 6 hoa, xếp thành chùm đôi khi ở dưới có phân nhánh. Hạch nhỏ hình cầu. Hạt không nở và không có chất nhầy bao quanh khi cho vào nước. Cây được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Trong y học cổ truyền và dân gian, hương nhu trắng được sử dụng từ lâu để điều trị các bệnh như cảm cúm, ho, sốt, đau đầu, rối loạn tiêu hóa và các bệnh ngoài da. Thành phần hóa học của hương nhu trắng rất phong phú, chủ yếu tập trung ở tinh dầu. Tinh dầu hương nhu trắng chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học như eugenol, methyl eugenol, thymol, và các chất khác. Chính các thành phần này mang lại tác dụng dược lý quý giá như: Kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau, chống oxy hóa.

    [Hương Nhu Trắng (Đoạn Đầu Cành Có Hoặc Không Có Hoa](Dược liệu/Hương Nhu Trắng (Đoạn Đầu Cành Có Hoặc Không Có Hoa/Hương Nhu Trắng (Đoạn Đầu Cành Có Hoặc Không Có Hoa.md)

  • Hương Phụ (Thân Rễ)


    Hương Phụ (Rhizoma Cyperi) là thân rễ đã loại bỏ rễ con và lông, phơi hay sấy khô của cây Hương phụ vườn (Cyperus rotundus L.), hoặc cây Hương phụ biển (Cyperus stoloniferus Retz.), thuộc họ Cói (Cypceraceae). Loài cây này phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như châu Á, châu Phi, châu Âu, và châu Mỹ. Tại Việt Nam, hương phụ mọc hoang nhiều ở đồng ruộng, ven đường và đặc biệt ở các vùng đất ven biển. Trong y học cổ truyền, Hương phụ có vị hơi cay, hơi đắng, tính bình, quy vào các kinh can, tỳ, tam tiêu, với công năng hành khí chỉ thống, giải uất điều kinh, kiện vị tiêu thực. Thành phần hóa học chính của Hương phụ bao gồm tinh dầu, triterpenoid, saponin, flavonoid, và hoạt chất đặc biệt cyperone.

    Hương Phụ (Thân Rễ)

  • Hương Phụ (Thân Rễ)


    Hương Phụ (Rhizoma Cyperi) là thân rễ đã loại bỏ rễ con và lông, phơi hay sấy khô của cây Hương phụ vườn (Cyperus rotundus L.), hoặc cây Hương phụ biển (Cyperus stoloniferus Retz.), thuộc họ Cói (Cypceraceae). Loài cây này phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như châu Á, châu Phi, châu Âu, và châu Mỹ. Tại Việt Nam, hương phụ mọc hoang nhiều ở đồng ruộng, ven đường và đặc biệt ở các vùng đất ven biển. Trong y học cổ truyền, Hương phụ có vị hơi cay, hơi đắng, tính bình, quy vào các kinh can, tỳ, tam tiêu, với công năng hành khí chỉ thống, giải uất điều kinh, kiện vị tiêu thực. Thành phần hóa học chính của Hương phụ bao gồm tinh dầu, triterpenoid, saponin, flavonoid, và hoạt chất đặc biệt cyperone.

    Hương Phụ (Thân Rễ)

  • Huyền Sâm (Rễ)


    Huyền sâm (Rễ) có tên khoa học Scrophularia buergeriana Miq., thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cây mới di thực vào nước ta, nay phát triển ở nhiều nơi. Kinh nghiệm sử dụng dân gian là khổ, hàm, hàn quy vào hai kinh phế, thận, có công dụng chữa sốt cao, sốt nóng về chiều, viêm họng, phát ban, mụn nhọt, mẩn ngứa, táo bón. Thành phần hóa học gồm iridoid (harpagid), phenylpropanoid; ngoài ra còn có scrophularin, asparagin, phytosterol, tinh dầu, acid béo và đường. Trong đó thành phần chính là harpagoside. Tác dụng dược lý trên tim, trên mạch máu, giảm sốt, giảm lượng đường trong máu, tác dụng kháng sinh.

    Huyền Sâm (Rễ)

  • Huyết Giác (Lõi Gỗ)


    Huyết giác (Lignum Dracaenae) là lõi gỗ phần gốc thân có chứa nhựa đã phơi hay sấy khô của cây Huyết giác {Dracaena cambodiana Pierre ex Gagnep. và Dracaena cochinchinensis (Lour.) S.C.Chen), thuộc họ Huyết giác (Dracaenaceae). Dược liệu này phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và các vùng phía nam của Trung Quốc. Trong y học cổ truyền, Huyết giác thường được sử dụng để chữa ứ huyết, chấn thương, máu tím bầm không lưu thông, và các trường hợp bế kinh ở nữ giới. Thành phần hóa học của Huyết giác bao gồm Linear 1,3-diarylpropanoids, Diarylheptanoids, Prenol lipids, Steroids và dẫn xuất, Phenols, và Homoisoflavonoids.

    Huyết Giác (Lõi Gỗ)

  • Hy Thiêm (Bộ Phận Trên Mặt Đất)


    Hy thiêm (Herba Siegesbeckiae) là toàn bộ phận trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Loài cây này mọc hoang phổ biến ở nhiều tỉnh thành tại Việt Nam và cũng phân bố ở châu Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, cùng một số quốc gia Đông Nam Á. Trong y học cổ truyền, Hy thiêm được biết đến với vị khổ, tính hàn, quy vào kinh can và thận, có tác dụng giảm đau, chống viêm, kháng khuẩn, hạ huyết áp, và chống khối u. Thành phần hóa học chính trong Hy thiêm bao gồm darutoside, darutigenol, sesquiterpenoid, diterpenoid, flavonoid, axit hữu cơ, và các hợp chất hỗn hợp.

    Hy Thiêm (Bộ Phận Trên Mặt Đất)

  • Ích Mẫu (Phần Trên Mặt Đất)


    Ích Mẫu có tên khoa học là Herba Leonuri japonici, thuộc họ Lamiaceae. Trên thế giới cây có nguồn gốc chủ yếu ở ở Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á, một phần nước Úc và được di thực đến một số nước ở Châu Mỹ. Tại Việt Nam hiện nay cây chủ yếu mọc hoang, thường thấy ở ven suối, ven sông nơi đất cát, còn mọc hoang ở ruộng hoang, ven đường. Cây thường dùng trong trường hợp bị rong huyết (cầm máu tử cung), chữa viêm niêm mạc dạ con, kinh nguyệt quá nhiều. Còn dùng chữa huyết áp cao, thuốc bổ huyết, các bệnh về tuần hoàn cơ tim, thần kinh của tim, chứng tim hẹp nhẹ (stenocardie), chữa lỵ. Quả ích mẫu dùng với tên sung úy tử làm thuốc thông tiểu, chữa phù thũng, thiên đầu thống (glôcôm). Dùng ngoài thân và quả ích mẫu giã đắp hay sắc lấy nước rửa chữa một số bệnh như sưng vú, chốc đầu, lở ngứa. Theo sách cổ, ích mẫu có tính chất: Vị cay, đắng, tính hơi hàn, có khả năng trục ứ huyết, sinh huyết mới, hoạt huyết điều kinh, những người có đồng tử mở rộng không dùng được. Ích mẫu có tác dụng dược lý trên tử cung, huyết áp, tim mạch, hệ thần kinh, kháng sinh. Cây chứa các nhóm thành phần hóa học: Alcaloid, glycoside, saponin, flavonoid và tinh dầu. Trong đó có Stachydrin được sử dụng làm biomarker để định tính dược liệu ích mẫu trong dược điển Việt Nam

    Ích Mẫu (Phần Trên Mặt Đất)

  • Ích Trí (Quả)


    Ích trí có tên khoa học là Fructus Alpiniae oxyphyllae - họ Gừng Zingiberaceae. Trên thế giới cây có nguồn gốc chủ yếu ở Trung Quốc Nam-Trung Bộ, Trung Quốc Đông Nam Bộ, Hải Nam. Tại Việt Nam chưa rõ phân bố. Ích trí nhân mới thấy dùng trong phạm vi đông y. Tính vị của ích trí nhân theo đông y là vị cay, ôn, có tác dụng làm ấm thận, vị, cầm đi ỉa lỏng. Dùng làm thuốc chữa đái dầm, di mộng tinh, bổ dạ dày. Trong ích trí nhân có chừng 0,7% tinh dầu. Cây có chứa thành phần hóa học chủ yếu của tinh dầu là tecpen, Sesquitecpen, sesquitecpenancola, chừng 1,71% chất saponin

    Ích Trí (Quả)

  • Ké Đầu Ngựa (Quả)


    Cây ké đầu ngựa có tên khoa học là Xanthium strumarium L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Phân bố rộng khắp châu á và châu, Ai Cập... Tại Việt Nam mọc hoang ở khắp mọi nơi. Theo kinh nghiệm dân gian cây thường được đừng để chữa đau răng, mũi chảy nước trong, đặc, chữa thủy thũng, bí tiểu tiện, chữa bướu cổ. Thành phần hóa học bao gồm: Chất béo, gycozid, Vitamin C, Carboxy atractylozit, Xanthatin và xanthamin, Iot. Cây cả tác dụng điều trị các bệnh về da như mẩn ngứa, mụn nhọt, biếu cổ.

    Ké Đầu Ngựa (Quả)

  • Kê Huyết Đằng (Thân)


    Kê huyết đằng (Caulis Spatholobi) là thân khô của cây kê huyết đằng hay huyết rồng (Spatholobus suberectus Dunn), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây kê huyết đằng phân bố chủ yếu ở châu Á, bao gồm Đông Nam Á, Nam Á và Đông Á. Tại Việt Nam, cây mọc nhiều ở các tỉnh Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Lâm Đồng, Sông Bé, và Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo y học cổ truyền, kê huyết đằng được sử dụng để chữa thiếu máu, lưng gối mỏi đau, chân tay tê liệt, và kinh nguyệt không đều. Liều dùng thông thường từ 10 - 15g mỗi ngày, dưới dạng sắc nước hoặc ngâm rượu uống. Ngoài ra, huyết rồng còn được dùng để chữa kinh bế, đau bụng, phong thấp, giun kim và giun đũa. Thành phần hóa học của huyết rồng bao gồm epicatechin (một loại tanin có tác dụng chống oxy hóa mạnh), cùng với các flavonoid như ononin, prunetin, afrormosin, và licochalcon A. Ngoài ra, cây còn chứa acid protocatechic, friedelan-3β-ol, daucosterol, và isoliquiritigenin.

    Kê Huyết Đằng (Thân)

  • Kê Nội Kim


    Kê nội kim có tên khoa học là Endothelium Corneum Gigeriae Galli thuộc họ Phasianidae là vị thuốc cổ truyền trong nhân dân Việt Nam và Trung Quốc. Vị thuốc được ghi trong Thần nông bản thảo và Bản thảo cương mục. Thành phần hoá học gồm Protit và chất vị kích tố (ventriculin). Người ta dùng kê nội kim trong những trường hợp đau bụng, ăn uống không tiêu, bụng đầy chướng, nôn mửa, bệnh lỵ, viêm ruột già, tiểu tiện ra máu, dùng ngoài chữa mụn nhọt.

    Kê Nội Kim

  • Kha Tử (Quả)


    Cây chiêu liêu có tên khoa học là Terminalia chebula Retz. thuộc họ Bàng (Combretaceae). Cây phân bố ở nhiều nước trên thế giới như: Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Tây Úc và Việt Nam. Tại Việt Nam, cây phân bố chủ yếu ở miền Nam. Trong y học cổ truyền cây thường dùng để chữa đi ỉa lỏng lâu ngày, chữa lỵ kinh niên, còn dùng chữa ho mất tiếng, di tinh, mồ hôi trộm, trĩ, lòi dom, xích bạch. Trong kha tử có tới 20-40% tanin bao gồm axit elagic, axit galic và axit luteolic. Lượng tanin có khi lên đến 51.3% nếu quả thật khô. Ngoài ra còn có axit chebulinic tỉ lệ 3-4%. Nhờ hoạt chất Polysaccharid, quả cây Chiêu liêu có thể điều trị viêm họng, khản tiếng, giảm ho rõ rệt trong 30 phút. Chất Alloyl trong quả có thể kháng virus, ức chế sự phát triển của một số loại virus làm suy giảm hệ thống miễn dịch của con người (theo Viện thống kê Ấn Độ). Là chất kháng sinh tự nhiên, có khả năng diệt khuẩn mạnh mẽ nhờ hàm lượng tanin dồi dào. Ức chế sự phát triển của trực khuẩn bạch hầu, tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh, liên cầu khuẩn tán huyết, Pseudomonas Aeruginosa, Salmonella Typhi. Ức chế và tiêu diệt các loại virus gây viêm họng như virus cúm A, cúm B, Herpes Simplex (HPV), vi khuẩn như tụ cầu, liên cầu

    Kha Tử (Quả)

  • Khiếm Thực (Hạt)


    Khiếm Thực (Semen Euryales) là hạt của quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Khiếm thực (Einyales ferox Salisb.), thuộc họ Súng (Nymphaeaceae). Loài cây này phân bố chủ yếu ở Châu Á, các khu vực nhiệt đới, cận nhiệt đới trên thế giới và chưa được trồng tại Việt Nam. Theo y học cổ truyền, khiếm thực thường được sử dụng để điều trị các bệnh như đau nhức dây thần kinh, tê thấp, đau lưng, đau đầu gối. Thành phần hóa học phong phú của khiếm thực bao gồm các hợp chất như saponin steroid, alcaloid, flavonoid, tanin, cùng với chất béo (lipids), tinh dầu (essential oils), vitamin, khoáng chất, và acid amin (amino acids) với chất tiềm năng là isoflavonoids.

    Khiếm Thực (Hạt)

  • Khổ Hạnh Nhân


    Khổ Hạnh Nhân (Semen Armeniacae amarum) là hạt lấy ở quả chín được bỏ hạch cứng đã phơi hay sấy khô của cây Mơ (Primus armeniaca L.), thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây mọc hoang khắp nơi. Hiện nay ở Việt Nam, cây được trồng nhiều ở vùng Bắc Trung Bộ. Theo tài liệu cổ, khổ hạnh nhân tính khổ, tân, ôn, ít độc, vào 2 kinh phế, đại tràng. Khổ hạnh nhân dùng bổ phế, nhuận tràng, giảm ho suyễn do môi trường hoặc đờm ẩm, táo bón do huyết hư, thiếu tân dịch, và làm mềm da. Khổ Hạnh Nhân chứa amygdalin, có thể phân giải tạo cyanide, được sử dụng với liều thấp để giảm đau, nhưng cần thận trọng vì độc tính.

    Khổ Hạnh Nhân

  • Khoản Đông Hoa (Cụm Hoa Chưa Nở Đã Phơi Sấy Khô)


    Khoản Đông Hoa (Flos Tussilaginis farfarae) là cụm hoa chưa nở đã phơi hay sấy khô của cây Khoản đông (Tussilago farfara L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Loài cây này phân bố tại Trung Quốc, nhiều nước châu Âu và chỉ mới thấy có một số người trồng từ giống nhập của nước ngoài ở Việt Nam. Theo y học cổ truyền, hoa và lá khoản đông được sử dụng như một vị thuốc lâu đời, có vị cay, ngọt, tính ôn, không độc, với tác dụng ôn phế, hạ khí, hóa đờm, chỉ ho. Thành phần hóa học bao gồm alkaloid và terpenoid, các este, alcohol, và hydrocarbon với chất tiềm năng là Tussilagine.

    Khoản Đông Hoa (Cụm Hoa Chưa Nở Đã Phơi Sấy Khô)

  • Kim Anh ( Quả)


    Kim anh (Quả) (Fructus Rosae laevigatae) là quả già đã phơi hay sấy khô của cây Kim anh (Rosa laevigata Michx.), họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây thường mọc ở các tỉnh miền núi biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn ở Việt Nam và một số khu vực khác tại Trung Quốc và Đài Loan. Quả kim anh có tính toan, cam, sáp, bình, vào các kinh phế, thận, bàng quang. Dược liệu dùng trị di tinh, hoạt tinh, di niệu, niệu tần (tiểu nhiều lần), băng kinh, rong huyết, ỉa chảy, lỵ lâu ngày. Quả kim anh có chứa nhiều thành phần hóa học quan trọng như tanin, vitamin C, saponozit và đường glucoza.

    Kim Anh ( Quả)

  • Kim Ngân (Cuộng)


    Kim Ngân (Cuộng) (Caulis cum folium Lonicerae) là cành và lá phơi hay sấy khô của cây Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) và một số loài khác cùng chi như Lonicera dasystyla Rehd.; Lonicera confusa DC. và Lonicera cambodiana Pierre ex Danguy, họ Kim ngân (Caprifoliaceae). Cây mọc hoang ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Nghệ An, và Hà Tĩnh, đồng thời cũng phân bố rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Cuộng kim ngân có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, vào kinh phế, vị. Dược liệu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trị ho do phế nhiệt, ban sởi, mụn nhọt, mày đay, lở ngứa, nhiệt độc, lỵ.. Thành phần hóa học của Kim Ngân Cuống gồm có các hợp chất flavonoid như quercetin và luteolin, acid phenolic (chlorogenic acid), và tinh dầu (caryophyllene), giúp chống oxy hóa, kháng viêm, giảm đau và bảo vệ tế bào.

    Kim Ngân (Cuộng)

  • Kim Ngân (Hoa)


    Kim Ngân (Flos Lonicerae) là nụ hoa có lẫn một số hoa đã phơi hay sấy khô của cây Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) và một số loài khác cùng chi như Lonicera dasystyla Rehd.; Lonicera confusa DC. và Lonicera cambodiana Pierre, họ Kim ngân (Caprifoliaceae). Dược liệu này có nguồn gốc từ Châu Á và đã được di thực đến nhiều khu vực trên Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Đại Dương, Châu Phi và mọc hoang ở nhiều tỉnh vùng núi Việt Nam. Kim ngân là một vị thuốc dân gian quý giá, được sử dụng để chữa mụn nhọt, rôm sẩy, đậu mùa, sởi, và giang mai. Trong hoa kim ngân, có chứa inosit (hay inositol) chiếm khoảng 1%, cùng với nhiều saponozit.

    Kim Ngân (Hoa)

  • Lá Hen (Dùng Lá)


    Lá hen (Folium Calotropis gigantea) là lá của cây Bồng bồng (Calotropis gigantea (L.) W.T.Aiton), thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae). Lá hen phân bố chủ yếu ở các khu vực nhiệt đới khô từ Nam Trung Quốc đến Châu Á nhiệt đới. Tại Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng nhiều nơi làm hàng rào hoặc làm thuốc. Theo tài liệu cổ, lá hen có vị đắng, tính bình, thường được dùng chữa hen suyễn. Tác dụng dược lý của lá hen bao gồm hỗ trợ hoạt động tim mạch như tăng sức co bóp cơ tim, kéo dài thời gian tâm thu, làm giảm nhịp tim, đồng thời có tác dụng chống ung thư, chống viêm, và chống oxy hóa. Thành phần hóa học chính của lá hen gồm các triterpenoids (amyrin, β-amyrin, taraxasterol acetate) và các glycosid tim (digitoxigenin, calotropin, calactin, uzarigenin).

    Lá Hen (Dùng Lá)

  • Lá Lốt (Phần Trên Mặt Đất Tươi Hay Phơi, Sấy Khô)


    Lá lốt (Herba Piperis lolot) là toàn cây của cây lá lốt (Piper lolot C.DC.), thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae). Lá lốt phân bố chủ yếu ở châu Á, bao gồm Đông Nam Á, Nam Á và Đông Á, và đã được di thực sang các khu vực như châu Đại Dương, châu Phi và vùng Caribe. Ở Việt Nam, lá lốt mọc hoang và thường được trồng tại nhiều nơi ở miền Bắc. Theo y học cổ truyền, lá lốt được dùng làm gia vị hoặc sắc uống để chữa đau xương, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân, và bệnh đi ngoài lỏng. Lá lốt có tác dụng dược lý kháng khuẩn mạnh đối với các vi khuẩn như Bacillus pyocyaneus, Staphylococcus aureus, và Bacillus subtilis; đồng thời, có tác dụng chống viêm, gây giãn mạch ngoại biên và ức chế hoạt tính co thắt cơ trơn ruột của histamin và acetylcholin. Lá lốt cũng có khả năng ức chế men collagenase trong ống nghiệm. Thành phần hóa học của lá, thân và rễ lá lốt bao gồm alcaloid và tinh dầu, với thành phần chính trong tinh dầu là β-caryophyllene.

    Lá Lốt (Phần Trên Mặt Đất Tươi Hay Phơi, Sấy Khô)

  • Lá Móng


    Lá Móng (Folium Lawsoniae) là lá tươi hoặc đã phơi hay sấy khô của cây Lá móng (Lawsonia inermis L.), thuộc họ Tử vi (Lythraceae). Loài cây này mọc hoang và được trồng phổ biến tại các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, Ai Cập, và các nước Đông Nam Á. Lá móng được dùng để chữa các bệnh hắc lào, lở loét, bệnh da vàng, bệnh hủi, và nhanh mọc tóc và móng tay. Lá tươi giã nát trộn với giấm thanh có tác dụng chữa các bệnh ngoài da. Thành phần hóa học chính của lá móng bao gồm: Lawsone (1,2-naphthoquinone - một chất quinon có tác dụng kháng sinh mạnh), tanin, chất béo, tinh dầu, chất nhựa.

    Lá Móng

  • Lạc Tiên


    Lạc tiên (Herba Passiflorae foetidae) là phần trên mặt đất đã phơi hoặc sấy khô của cây Lạc tiên (Passiflora foetida L.), họ Lạc tiên (Passifloraceae). Cây mọc hoang ở khắp nơi của nước ta. Theo tài liệu cổ, lạc tiên có tính cam, vi khổ, lương, vào các kinh tâm, can. Dược liệu này được dùng để an thần, giải nhiệt, mát gan. Tác dụng dược lý của cây dùng trị ho, hen suyễn, gây nôn, hỗ trợ giảm các triệu chứng của rối loạn thần kinh (cuồng loạn). Lạc tiên ở nước ta chưa được nghiên cứu thành phân hóa học. Theo Quesland, quả chín lạc tiên chứa acid xyanhydric với lượng nhỏ không đủ gây độc.

    Lạc Tiên

  • Liên Kiều (Quả)


    Quả Liên Kiều (Fructus Forsythiae suspensae) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Liên kiều [Forsythia suspensa (Thunb.) Vahl.], thuộc họ Nhài (Oleaceae). Cây được phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, chưa thấy ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, quả liên kiều có vị đắng, tính hàn, quy cào kinh tâm, đởm, tảm tiêu, đại tràng. Dược liệu được dùng chữa đinh nhọt, tràng nhạc, đờm hạch, nhũ ung, đan độc (viêm quầng đỏ); cảm mạo phong nhiệt, ôn bệnh vào tâm bào sốt cao gây háo khát, tinh thần hôn ám (mê sáng), phát ban; lâm lậu kèm bí tiểu tiện. Trong quả liên kiều có một glucosid điển hình là phillyrin, ngoài ra còn có Sắt, Canxi, Đồng, Magnesium, Kali, Natri, Kẽm...

    Liên Kiều (Quả)

  • Liên Kiều (Quả)


    Quả Liên Kiều (Fructus Forsythiae suspensae) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Liên kiều [Forsythia suspensa (Thunb.) Vahl.], thuộc họ Nhài (Oleaceae). Cây được phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, chưa thấy ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, quả liên kiều có vị đắng, tính hàn, quy cào kinh tâm, đởm, tảm tiêu, đại tràng. Dược liệu được dùng chữa đinh nhọt, tràng nhạc, đờm hạch, nhũ ung, đan độc (viêm quầng đỏ); cảm mạo phong nhiệt, ôn bệnh vào tâm bào sốt cao gây háo khát, tinh thần hôn ám (mê sáng), phát ban; lâm lậu kèm bí tiểu tiện. Trong quả liên kiều có một glucosid điển hình là phillyrin, ngoài ra còn có Sắt, Canxi, Đồng, Magnesium, Kali, Natri, Kẽm...

    Liên Kiều (Quả)

  • Linh Chi


    Linh chi (Ganoderma lucidum) là quả thể hóa gỗ đã được phơi hoặc sấy khô, thuộc họ Nấm Lim (Ganodermataceae). Loài dược liệu này phân bố chủ yếu ở các khu rừng nhiệt đới và ôn đới tại châu Á, thường xuất hiện trên thân cây gỗ mục hoặc gỗ chết. Theo y học cổ truyền, linh chi được biết đến như một vị thuốc quý giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ và hỗ trợ điều trị các bệnh liên quan đến tim mạch, gan và thận. Thành phần hóa học của linh chi bao gồm nhiều hợp chất hoạt tính sinh học quan trọng như polysaccharides (đặc biệt là beta-glucans), triterpenoids (được biết đến là ganoderic acids), peptid, và các hợp chất phenolic. Những thành phần này không chỉ góp phần vào tác dụng bồi bổ mà còn mang lại hiệu quả chống viêm, chống oxy hóa và cải thiện sức khỏe tổng thể.

    Linh Chi

  • Lô Hội (Nhựa)


    Lô hội là cây có thân hóa, ngắn, to thô. Tên khoa học là Aloe sp., thuộc họ Hành Tỏi Liliaceae. Phân bố chủ yếu ở đông châu Phi, Ấn Độ, Châu Mỹ. Tại Việt Nam, lô hội mọc hoang ở bờ biển những tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang, Phan Ri) và Bình Thuận. Ở miền Bắc được trồng làm cảnh nhưng ít hơn. Theo tài liệu cổ lô hội vị đắng tính hàn, vào 4 kinh can, tỳ, vị và đại tràng. Có tác dụng sát trùng, thông tiện, thanh nhiệt, lương can. Một số thành phần hóa học đã được phát hiện và xác định cấu trúc của nhóm Aloin.

    Lô Hội (Nhựa)

  • Long Đởm (Rễ Và Thân Rễ)


    Long Đởm (Radix et Rhizoma Gentianae) là rễ và thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Long đởm (Gentiana scabra Bunge), cây Điều diệp long đởm (Gentiana manshurica Kitag.), cây Tam hoa long đởm (Gentiana triflora Pall.) hoặc cây Kiên long đởm (Gentiana rigescens Franch.), họ Long đởm (Gentianaceae). Loài cây này thường mọc ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, phân bố tại Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, và một số nước Đông Nam Á. Theo y học cổ truyền, long đởm được sử dụng để chữa ho, long đờm, hen suyễn, và một số bệnh liên quan đến đường hô hấp. Ngoài ra, dược liệu này còn có tác dụng trị giun sán và giảm đau. Các nghiên cứu dược lý hiện đại đã chứng minh long đởm có những tác dụng như kháng khuẩn, chống viêm, giảm ho, giãn phế quản, và có hiệu quả an thần nhẹ. Thành phần hóa học chính của long đởm bao gồm các alkaloid như stemonine, tuberostemonine, isostemonine, cùng với các hợp chất phenolic.

    Long Đởm (Rễ Và Thân Rễ)

  • Long Nha Thảo( Phần Trên Mặt Đất)


    Long nha thảo với Tên khoa học Agrimonia nepalensis D. Don (Agrimonia eupatoria auct. non L.), thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae.). Phân bố bản địa của loài này là Bắc và Đông Âu đến Nhật Bản và Bắc Đông Dương... Cây mọc hoang ở miền Bắc Việt Nam (quanh thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn). Phần trên mặt đất của cây được sử dụng làm thuốc. Thành phần hóa học của Long nha thảo bao gồm các hợp chất như agrimol C, luteolin, quercitrin và pilosanol C.... Dược liệu tác dụng dược lý: tiêu viêm,tăng sự dinh dưỡng của tế bào, tăng sức động của huyết dịch....Dùng làm thuốc cầm máu chữa bệnh đi ỉa ra máu, thổ huyết, ho ra máu, đổ máu cam, tử cung xuất huyết... trong dân gian thường dùng bằng cách loại bỏ tạp chất, cắt đoạn, phơi hoặc sấy khô, dạng thuốc sắc, thuốc tán, dùng riêng, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

    Long Nha Thảo( Phần Trên Mặt Đất)

  • Long Nhãn (Cùi)


    Long nhãn có tên khoa học Dimocarpus longan Lour, họ Bồ hòn (Sapindaceae). Cây bản địa của Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Tây Bắc Bán đảo Malaysia.Ở Việt Nam đâu cũng có, nhưng nhiều và quý nhất là nhãn Hưng Yên. Ngoài công dụng làm thực phẩm, long nhân nhục là một vị thuốc nhân dân dùng để bồi bổ, chữa các bệnh hay quên, thần kinh kém, hay hoảng hốt, thần kinh suy nhược, không ngủ được. Cùi khô (long nhãn nhục) chứa nước, chất tan trong nước glucoza, sacaroza, axit taetric, chất có nitơ. Trong một số nghiên cứu cho thấy long nhãn có tác dụng chống oxy hóa, căng cường miễn dịch...

    Long Nhãn (Cùi)

  • Mã Đề (Hạt)


    Hạt mã đề (Semen Plantaginis), thuộc họ Plantaginaceae, là một dược liệu phổ biến trong y học cổ truyền và dân gian. Loài cây này phân bố rộng rãi trên thế giới, bao gồm các khu vực thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi, và châu Mỹ. Tại Việt Nam, mã đề mọc hoang và được trồng phổ biến ở khắp các vùng. Theo kinh nghiệm dân gian, hạt mã đề có nhiều công dụng trong việc điều trị các bệnh lý liên quan đến trị chứng thấp nhiệt ở bàng quang, đái nhỏ giọt, tắc và phù thũng, cầm tiêu chảy, trị nôn, tiêu chảy mùa hè, tiểu tiện không lợi, chữa đái tháo đường, thích hợp cho phụ nữ bị viêm tử cung, huyết trắng. Tác dụng dược lý của mã đề bao gồm lợi tiểu, kháng sinh, hạ huyết áp và hỗ trợ điều trị lỵ cấp và mạn tính. Thành phần hóa học chủ yếu của mã đề là aucubin và plantaginin, ngoài ra ở hạt mã đề còn có các thành phần chất nhầy, axit plantenolic, adenin và cholin. Với những đặc tính này, lá mã đề là một dược liệu quan trọng trong điều trị nhiều chứng bệnh, giúp cải thiện sức khỏe và hỗ trợ điều trị các vấn đề sức khoẻ.

    Mã Đề (Hạt)

  • Mã Đề (Lá)


    Lá Mã đề (Folium Plantaginis) là lá đã phơi sấy khô của cây Mã đề (Plantago major L) thuộc họ Plantaginaceae. Phân bố khắp Việt Nam cũng như gần hết các quốc gia trên thế giới. Mã đề là loại cây cỏ sống lâu năm, thân ngắn, lá mọc thành cụm ở gốc, cuống dài, phiến lá hình thìa hay hình trứng, có gân dọc theo sống lá và đồng quy ở ngọn và gốc lá. Mã đề chứa nhiều thành phần hóa học iridoid, acid phenolic, flavonoid, lá có chất nhầy, chất đắng, carotin, vitamin C, vitamin K. Có tác dụng thanh nhiệt trừ đờm, lợi tiểu. dùng để trị ho, viêm phế quản, bí tiểu tiện thường được sử dụng dưới dạng nước sắc.

    Mã Đề (Lá)

  • Ma Hoàng (Bộ Phận Trên Mặt Đất)


    Dược liệu ma hoàng (Herba ephedrae) là bộ phận trên mặt đất đã phơi hoặc sấy khô của cây Thảo ma hoàng (Ephedra sinica Staff.), Mộc tặc ma hoàng (Ephedra equisetina Bunge.), Trung gian ma hoàng (Ephedra intermedia Schrenk, et C. A. Meyer); thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng chưa thấy ở Việt Nam, chủ yếu ở Trung Quốc. Theo tài liệu cổ, ma hoàng có tính tân, vị khổ, ôn, vào 2 kinh phế, bàng quang. Dược liệu được dùng trị cảm mạo phong hàn, dương thủy; ngực tức, ho suyễn, hen phế quản, phù thũng. Thành phần hóa học trong ma hoàng gồm có ephedrin, pseudoephedrin và metyl ephedrin, trong đó ephedrin có tác dụng hơn cả. Tác dụng của ephedrin giống với tác dụng của adrenalin, nhưng yếu hơn, bao gồm kích thích thần kinh trung ương, tác dụng miễn dịch nhanh.

    Ma Hoàng (Bộ Phận Trên Mặt Đất)

  • Mã Tiền (Hạt)


    Mã tiền (Hạt) (Semen Strychni) là hạt đã qua chế biến của cây Mã tiền (Strychnos nux-vomica L.), thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Mã tiền phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, và các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh miền Nam. Theo tài liệu cổ, Mã tiền có tính hàn, vị đắng, vào kinh can và tỳ, liều dùng tối đa 0,5g/ngày sau chế biến. Hạt mã tiền thường được dùng chữa tê thấp, đau nhức, và sưng khớp. Tác dụng dược lý của Mã tiền bao gồm kích thích thần kinh, tăng huyết áp, và hỗ trợ tiêu hóa. Hạt mã tiền chứa nhiều thành phần hóa học như alkaloid (strychnin, bruxin), axit igasuric, manan (15%), galactan (85%), loganin (1,5%), và chất béo (4-5%).

    Mã Tiền (Hạt)

  • Mạch Môn (Rễ)


    Mạch môn (Rễ) (Radix Ophiopogonis japonici) là rễ của cây Mạch môn (Ophiopogon japonicus), thuộc họ Convallariaceae. Cây phân bố chủ yếu ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Theo y học cổ truyền, mạch môn có vị ngọt, tính hàn, thường được dùng làm thuốc ho long đờm, thuốc bổ cho bệnh phổi, chữa gầy còm, thiếu sữa, lợi tiểu, và chữa sốt khát nước. Tác dụng dược lý của mạch môn bao gồm hạ cholesterol máu, bảo vệ tim mạch, hạ huyết áp, hạ đường huyết, điều hòa miễn dịch, chống oxy hóa, chống viêm, giãn mạch, và lợi tiểu. Rễ mạch môn chứa các thành phần hóa học chính như saponin steroid (ophiopogonin A, B, C, D), carbohydrat, β-sitosterol, stigmasterol, và β-sitosteroi β-D-glucosid. Mạch môn là một dược liệu tiềm năng, nhưng cần thận trọng khi sử dụng cho người có tỳ vị hư hàn và đại tiện lỏng.

    Mạch Môn (Rễ)

  • Mạch Môn (Rễ)


    Mạch môn (Rễ) (Radix Ophiopogonis japonici) là rễ của cây Mạch môn (Ophiopogon japonicus), thuộc họ Convallariaceae. Cây phân bố chủ yếu ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Theo y học cổ truyền, mạch môn có vị ngọt, tính hàn, thường được dùng làm thuốc ho long đờm, thuốc bổ cho bệnh phổi, chữa gầy còm, thiếu sữa, lợi tiểu, và chữa sốt khát nước. Tác dụng dược lý của mạch môn bao gồm hạ cholesterol máu, bảo vệ tim mạch, hạ huyết áp, hạ đường huyết, điều hòa miễn dịch, chống oxy hóa, chống viêm, giãn mạch, và lợi tiểu. Rễ mạch môn chứa các thành phần hóa học chính như saponin steroid (ophiopogonin A, B, C, D), carbohydrat, β-sitosterol, stigmasterol, và β-sitosteroi β-D-glucosid. Mạch môn là một dược liệu tiềm năng, nhưng cần thận trọng khi sử dụng cho người có tỳ vị hư hàn và đại tiện lỏng.

    Mạch Môn (Rễ)

  • Mâm Xôi (Quả)


    Quả mâm xôi (Fructus Rubi) là quả của cây mâm xôi (Rubus idaeus L.), thuộc họ Hoa Hồng (Rosaceae). Mâm xôi phân bố chủ yếu ở các châu lục như châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ, và một số khu vực ở châu Đại Dương. Ở Việt Nam, cây thường mọc hoang tại các vùng núi rừng miền Bắc. Theo tài liệu cổ, quả mâm xôi có vị ngọt, tính ôn, quy vào kinh thận, được sử dụng để ích thận, cố tinh, chủ trị các chứng tiểu nhiều lần, tiểu không cầm, thận hư dẫn đến tảo tiết, di tinh, và liệt dương. Quả mâm xôi chứa các axit hữu cơ như axit citric, axit malic, axit salicylic, và đặc biệt giàu ellagic acid, một hợp chất có tác dụng chống oxy hóa mạnh, giúp ngăn ngừa ung thư và hỗ trợ giảm viêm. Ngoài ra, quả còn chứa đường, pectin và tanin, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tiêu hóa và tăng cường sức khỏe tổng thể.

    Mâm Xôi (Quả)

  • Mạn Kinh Tử (Quả)


    Mạn kinh tử (Fructus Viticis trifoliae) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Mạn kinh (Vitex trifolia L.) hay cây Mạn kinh lá đơn (Vitex rotundifolia L. f.), thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaccae). Mạn kinh tử có ở các tỉnh ven biển Trung Quốc, Malaysia. Ở Việt Nam, cây mọc hoang khắp nơi, đặc biệt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Theo tài liệu cổ, mạn kinh tử vị cay, đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh can, phế và bàng quang. Dược liệu mạn kinh tử dùng chữa cảm mạo, nhức đầu do phong nhiệt, sưng đau răng lợi, đau mắt kèm chảy nhiều nước mắt, hoa mắt, chóng mặt, phong thấp, cân mạch co rút. Mạn kinh tử có tinh dầu, chứa nhiều thành phần hóa học như camphen, pinen, các alkaloid, flavonoid(điển hình là casticin), vitamin A...

    Mạn Kinh Tử (Quả)

  • Mạn Kinh Tử (Quả)


    Mạn kinh tử (Fructus Viticis trifoliae) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Mạn kinh (Vitex trifolia L.) hay cây Mạn kinh lá đơn (Vitex rotundifolia L. f.), thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaccae). Mạn kinh tử có ở các tỉnh ven biển Trung Quốc, Malaysia. Ở Việt Nam, cây mọc hoang khắp nơi, đặc biệt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Theo tài liệu cổ, mạn kinh tử vị cay, đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh can, phế và bàng quang. Dược liệu mạn kinh tử dùng chữa cảm mạo, nhức đầu do phong nhiệt, sưng đau răng lợi, đau mắt kèm chảy nhiều nước mắt, hoa mắt, chóng mặt, phong thấp, cân mạch co rút. Mạn kinh tử có tinh dầu, chứa nhiều thành phần hóa học như camphen, pinen, các alkaloid, flavonoid(điển hình là casticin), vitamin A...

    Mạn Kinh Tử (Quả)

  • Măng Cụt (Vỏ Quả)


    Vỏ măng cụt (Pericarpium Garciniae mangostanae) là vỏ quả chín được phơi hoặc sấy khô của quả cây Măng cụt (Garcinia mangostana L.), thuộc họ Măng cụt (Clusiaceae). Măng cụt có nguồn gốc từ Borneo, Malaysia, sau đó được di thực sang các nước khác, trong đó có Việt Nam. Hiện nay ở nước ta, cây được trồng nhiều ở vùng Nam Bộ. Theo y học cổ truyền, vỏ măng cụt có vị chát, tính ấm, vào kinh đại tràng. Dân gian sử dụng vỏ quả măng cụt để chữa đau bụng ỉa chảy, lỵ, khí hư bạch đới, chống viêm, hạ sốt. Vỏ măng cụt chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, nhựa, chất mangostin...

    Măng Cụt (Vỏ Quả)

  • Mộc Hương (Rễ)


    Mộc hương có tên khoa học là Saussurea lappa (DC) C.B.Clarke, bộ phận sử dụng làm thuốc là rễ cây. Phân bố ở các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam (Trung Quốc) nên còn có tên gọi khác là quảng mộc hương hay vân mộc hương, hiện được di thực về trồng ở nước ta. Theo y học cổ truyền, mộc hương được dùng làm thuốc giúp tiêu hóa tốt, bổ dạ dày, chữa đầy hơi, ho có đờm. Ngoài ra còn có tác dụng chữa đau bụng tiêu chảy, lỵ. Thành phần hóa học chủ yếu của rễ mộc hương gồm có inulin, chất nhựa saussurine và tinh dầu.

    Mộc Hương (Rễ)

  • Mộc Qua (Quả)


    Mộc qua có tên khoa học là Chaenomeles speciosa (Sweet) Nakai, bộ phận sử dụng làm thuốc là quả. Đây là loài cây bản địa của Trung Quốc và được di thực đến nhiều nơi trên thế giới. Theo y học cổ truyền, mộc qua được dùng làm thuốc chữa đau nhức thắt lưng, đầu gối, thấp khớp, ho lâu ngày, gân mạch co rút, chuột rút. Mộc qua có tác dụng giảm đau, chống viêm, ngoài ra còn giúp bổ sung vitamin C, B1. Thành phần hóa học chủ yếu của quả mộc qua gồm có Flavonoid, Monosaccharide (glucose, fructose) và các acid hữu cơ (acid citric, acid malic, acid tartaric).

    Mộc Qua (Quả)

  • Mộc Tặc (Phần Trên Mặt Đất)


    Mộc tặc (Herba Equiseti debilis) là phần trên mặt đất của cây Mộc tặc (Equisetum debile Roxb.), họ Mộc tặc (Equisetaceae). Trên thế giới, mộc tặc tập trung chủ yếu ở châu Á. Ở nước ta, cây thường gặp ở các tỉnh miền núi và trung du như SaPa (Lào Cai). Cây có tính cam, vi khổ, bình, quy vào kinh can, đởm, phế. Dân gian dùng mộc tặc trong đơn thuốc chữa đau mắt, loét giác mạc do virus herpes; chữa tiêu chảy ra máu mạn tính; băng huyết, rong kinh; chữa viêm gan hay cảm sốt không có mồ hôi… Mộc tặc chứa các alkaloid như equistin nicotin, palustrin, 3-methoxypyridin; các flavonoid như isoquercitrin, galuteolin, equisetrin… Ngoài ra cây khô còn chứa 75 – 100 mg% vitamin C và phân lập được pachysapogenin, ꞵ sitosterol…

    Mộc Tặc (Phần Trên Mặt Đất)

  • Mướp Đắng (Quả)


    Mướp đắng (Quả) (Pructus Momordicae charantiae) là quả của cây mướp đắng (Momordica charantia), thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Mướp đắng phân bố rộng khắp thế giới, từ châu Phi, châu Á đến châu Úc và các đảo Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, mướp đắng được trồng phổ biến ở cả miền Bắc và miền Nam. Theo y học cổ truyền, mướp đắng có vị đắng, tính hàn, quy vào kinh tỳ, phế và thận, liều dùng thường dao động từ 6-12g/ngày. Mướp đắng được dùng để chữa ho, sốt, táo bón, tiểu buốt, tiểu dắt, tiểu đường, và các bệnh ngoài da như mụn nhọt, rôm sảy. Tác dụng dược lý của mướp đắng bao gồm chống viêm, hạ đường huyết, và hỗ trợ tiêu hóa. Thành phần hóa học chính gồm glucozit đắng (momordixin), vitamin B1, C, adenin, betain, và protein.

    Mướp Đắng (Quả)

  • Nân Nghệ (Thân Rễ)


    Rễ Nần nghệ (Radix Dioscoreae) là rễ khô của cây Nần nghệ (Dioscorea collettii Hook. f.), thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Nần nghệ phân bố chủ yếu tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, thường mọc ở ven rừng, gần suối và trên sườn núi. Trong y học cổ truyền, nần nghệ được dùng để giải độc, tiêu thũng, khu phong trừ thấp, giảm đau, hỗ trợ điều trị phong thấp, đau lưng, viêm đường tiết niệu và rắn cắn. Rễ nần nghệ chứa thành phần hóa học chính là diosgenin (2,5%), một hợp chất có tác dụng chống viêm, giảm cholesterol, hỗ trợ cân bằng glucose và có tiềm năng hóa trị liệu chống ung thư.

    Nân Nghệ (Thân Rễ)

  • Náng Hoa Trắng (Lá)


    Náng hoa trắng (Lá) (Folium Crini asiatici) là lá của cây Náng hoa trắng (Crinum asiaticum), thuộc họ Thủy Tiên (Amaryllidaceae). Cây phân bố rộng rãi ở Việt Nam, thường mọc hoang tại các vùng ẩm ướt hoặc được trồng làm cảnh. Theo y học cổ truyền, lá Náng hoa trắng có tác dụng đắp ngoài trị bong gân, sai gân, khớp xương sưng đau, hoặc dùng xoa bóp giảm nhức mỏi, tê thấp. Nước sắc lá còn được sử dụng để rửa trĩ ngoại. Tác dụng dược lý của Náng hoa trắng bao gồm hỗ trợ giảm kích thước khối phì đại tuyến tiền liệt. Thành phần hóa học chính của lá là alkaloid lycorin (C16H17NO4), mang lại tiềm năng trong điều trị một số bệnh lý.

    Náng Hoa Trắng (Lá)

  • Nga Truật (Thân Rễ)


    Nga truật (Thân rễ) (Rhizoma Curcumae zedoariae) là thân rễ của cây Nga truật (Curcuma zedoaria (Christm.) Roscoe), thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Nga truật phân bố chủ yếu ở Ấn Độ, Đông Nam Á (Việt Nam, Thái Lan, Campuchia), và một số khu vực nhiệt đới khác. Theo y học cổ truyền, Nga truật có vị cay, đắng, tính ấm, quy vào kinh can và tỳ, với công năng hành khí, phá huyết, giảm đau, và hỗ trợ tiêu hóa. Nga truật thường được dùng để điều trị các chứng kinh nguyệt không đều, đầy bụng, và đau bụng kinh. Thành phần hóa học chính của Nga truật gồm 1-1,5% tinh dầu (chứa secquitecpen, zingiberen, cineol) cùng 3,5% chất nhựa và chất nhầy, mang lại tác dụng kích thích tiêu hóa và giảm đau hiệu quả.

    Nga Truật (Thân Rễ)

  • Ngải Cứu


    Ngải cứu (Herba Artemisiae vulgaris) là ngọn thân đã phơi hay sấy khô của cây Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Ngải cứu là một dược liệu có nguồn gốc rộng rãi, mọc ở nhiều nước châu Á và châu Âu. Ở Việt Nam, cây mọc hoang ở nhiều vùng trong nước, một số gia đình trồng quy mô nhỏ quanh nhà nhưng chưa thấy trồng quy mô lớn. Trong y học cổ truyền, ngải cứu được sử dụng để điều trị các chứng bệnh liên quan đến huyết, như kinh nguyệt không đều, băng huyết, rong huyết, và động thai, đồng thời có tác dụng điều hòa kinh nguyệt, an thai, và trị viêm ruột. Dược liệu này có tác dụng dược lý như kích thích sự say, tác dụng hưng phấn, nhưng nếu dùng quá mức có thể gây điên cuồng. Thành phần hóa học của ngải cứu bao gồm tinh dầu (xineol, α-thuyon), adenin, cholin, với biomaker đặc trưng là chlorogenic acid và scopoletin.

    Ngải Cứu

  • Ngành Ngạnh (Lá)


    Ngành ngạnh (Lá) – Folium Cratoxyli pruniflori là lá phơi hay sấy khô của cây Ngành ngạnh (Cratoxylum pruniflorum (Kurtz)), thuộc họ Ban (Hypericaceae). Cây phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là ở các đồi trọc vùng trung du, và cũng xuất hiện ở các quốc gia như Assam, Campuchia, Trung Quốc, Lào, Myanmar, và Thái Lan. Trong y học cổ truyền, lá Ngành ngạnh được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc, lợi tiêu hóa, và trị các chứng bệnh như sốt, ra mồ hôi trộm, cảm sốt, viêm ruột, tiêu chảy, ho mất tiếng. Dược liệu này có tác dụng dược lý chủ yếu là chống oxy hóa mạnh. Thành phần hóa học của Ngành ngạnh bao gồm các nhóm tanin và flavonoid, với biomarker đặc trưng là acid p-coumaric.

    Ngành Ngạnh (Lá)

  • Nghệ (Thân Rễ)


    Nghệ (Rhizoma Curcumae longae) là thân rễ đã phơi khô hay đồ chín rồi phơi hoặc sấy khô của cây Nghệ vàng (Curcuma longa L.), thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Nghệ có nguồn gốc từ Ấn Độ và sau đó được di thực sang nhiều nước trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam. Theo y học cổ truyền, nghệ thường được sử dụng để trị đau dạ dày, vàng da và đau bụng sau sinh. Dân gian còn dùng nghệ để bôi lên vết thương mới lành, giúp giảm sẹo, và trong nhiều bài thuốc khác như chữa thổ huyết, máu cam, điên cuồng, hay làm cao dán nhọt. Thành phần hóa học chính của nghệ là curcumin, một chất kháng viêm và chống oxy hóa mạnh mẽ. Ngoài ra, trong tinh dầu của nghệ còn có chứa các hợp chất như curcumen, paratolylmetyl cacbinol và long não hữu tuyến.

    Nghệ (Thân Rễ)

  • Ngọc Trúc (Thân Rễ)


    Ngọc trúc (Rhizoma Polygonati Odorati) là thân rễ đã phơi khô của cây Ngọc trúc [Polygonatum odoratum (Mm.) Druce], thuộc họ Mạch môn đông (Convallariaceae). Cây ngọc trúc phân bố chủ yếu ở châu Á, châu Âu và châu Phi. Tại Việt Nam, cây thường được trồng trong vườn ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Hà Giang và Lai Châu. Theo y học cổ truyền, ngọc trúc có vị ngọt, tính hơi hàn, quy vào 2 kinh phế và vị, có tác dụng tư âm, nhuận táo, và sinh tân chỉ khát. Thành phần hóa học chính của ngọc trúc gồm các glycosid chữa tim. như convallamarin và convallarin, cùng với các hợp chất flavonoid, saponin, chất nhầy, và các chất vô cơ.

    Ngọc Trúc (Thân Rễ)

  • Ngoi (Lá)


    Lá ngoi (Folium Solani erianthi) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Ngoi (Solanum erianthum D. Don), họ Cà (Solanaceae). Cây phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là Đông Nam Á và Nam Á. Lá Ngoi có vị đắng, cay, tính ấm, có độc. Dược liều dụng trị đau dạ dày, phong thấp tê bại, mụn nhọt ung độc, đòn ngã tổn thương, gẫy xương, bệnh bạch cầu hạt mạn tính, dùng ngoài trị viêm da có mủ, lòi dom, hắc lào, lao hạch. Lá ngoi có chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học như: Glycoalcaloid (đặc biệt là Solasonin, solamargine, solasodine), Flavonoid, Tinh dầu.

    Ngoi (Lá)

  • Ngũ Gia Bì Chân Chim (Vỏ Thân, Vỏ Cành)


    Ngũ gia bì chân chim (Cortex Schefflerae heptaphyllae) là vỏ thân và vỏ cành đã phơi hay sấy khô của cây Ngũ gia bì chân chim [Schefflera heptaphyla (L.) Frodin], thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Cây phân bố chủ yếu ở miền Nam Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, và mọc phổ biến tại các tỉnh miền núi của Việt Nam. Theo y học cổ truyền, ngũ gia bì chân chim có công dụng bổ mát, trị đau lưng, đau xương cốt do hàn thấp, gân xương co rút, sưng đau, hoặc sưng đau do sang chấn. Nhân dân thường dùng để pha hoặc sắc uống, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác để làm thuốc bổ và thanh nhiệt. Thành phần hóa học chính của ngũ gia bì chân chim bao gồm saponin (nhóm ursan và olean) và tanin.

    Ngũ Gia Bì Chân Chim (Vỏ Thân, Vỏ Cành)

  • Ngũ Gia Bì Gai (Vỏ Rễ, Vỏ Thân)


    Ngũ gia bì gai có tên khoa học là Eleutherococcus trifoliatus (L.) S.Y.Hu thuộc họ Araliaceae. Phân bố ở Nam Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, ... Ở Việt Nam, cây mọc hoang chủ yếu ở miền Bắc nước ta như Lào Cai, Vĩnh Phúc, Phú Thọ,...Nhân dân thường sử dụng dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu với tác dụng mạnh gân cốt, khu phong hóa thấp chủ trị đau bụng, yếu chân... Ngũ gia bì gai có thành phần hóa học gồm saponin trierpenoid, diterpen glycosid, phenylpropanoid,..

    Ngũ Gia Bì Gai (Vỏ Rễ, Vỏ Thân)

  • Ngũ Gia Bì Hương (Vỏ Rễ, Vỏ Thân)


    Ngũ gia bì hương (Thân và Rễ) (Radix et Caulis Acanthopanacis gracilistylus) là phần thân và rễ đã qua chế biến của cây ngũ gia bì hương (Acanthopanax gracilistylus W. W. Smith), thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Cây là loại gỗ nhỏ, phân bố tự nhiên tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, và một số vùng miền Bắc Việt Nam như Lạng Sơn, Cao Bằng, Sapa, và Vĩnh Phúc. Theo y học cổ truyền, ngũ gia bì hương có vị cay, đắng, tính ôn, quy vào kinh can và thận, được sử dụng để trừ phong thấp, cường gân cốt, bổ can thận, chữa các triệu chứng đau nhức xương khớp, viêm khớp, và phục hồi sức khỏe cho trẻ em yếu sức, chậm biết đi. Thành phần hóa học chính bao gồm saponin triterpenoid (Araliasaponin, Hederagenin), flavonoid (Quercetin, Kaempferol, Rutin), alkaloid (Schefflerin, Araline), polysaccharides (Arabinogalactan, Glycoprotein polysaccharides), và các axit hữu cơ (Axit chlorogenic, Axit caffeic), giúp ngũ gia bì hương có tác dụng chống viêm, giải độc, tăng cường sức khỏe tổng thể, và cải thiện lưu thông máu.

    Ngũ Gia Bì Hương (Vỏ Rễ, Vỏ Thân)

  • Ngũ Vị Tử ( Quả)


    Ngũ vị tử (Fructus Schisandrae chinensis) là quả của cây Ngũ vị tử (Schisandra chinensis), thuộc họ Ngũ vị (Schisandraceae), một loài dây leo có nguồn gốc từ các vùng ôn đới ở Đông Á như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, và một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Lào Cai, Nghệ An, và Hà Tĩnh. Quả Ngũ vị tử có màu đỏ sẫm khi chín, chứa 1-2 hạt, và được sử dụng phổ biến trong y học cổ truyền. Ngũ vị tử có vị chua, mặn, tính ấm, quy vào kinh phế và thận, với công năng bổ thận, kích thích hệ thần kinh cơ, tăng cường sức đề kháng, chống mệt mỏi và được dùng trong điều trị các bệnh như ho lâu ngày, mệt mỏi, di tinh, mộng tinh, và các rối loạn liên quan đến thận và phế. Thành phần hóa học của Ngũ vị tử bao gồm lignans (schisandrin, schisandrol), triterpenoids, vitamin A, C, E, và polysaccharides như arabinogalactans, mang lại các tác dụng dược lý như chống viêm, giảm đau, an thần, và hỗ trợ cải thiện sức khỏe tổng thể.

    Ngũ Vị Tử ( Quả)

  • Nhân Sâm (Thân Rễ Và Rễ)


    Thân rễ và rễ nhân sâm (Rhizoma et Radix Ginseng) là thân rễ và rễ đã phơi hay sấy khô của cây Nhân sâm (Panax ginseng C.A.Mey), thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Nhân sâm phân bố chủ yếu ở Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc và Liên Xô cũ, chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, nhân sâm sẽ có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào 2 kinh tỳ và phế. Dược liệu này có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí, chữa phế hư ho suyễn, tỳ hư tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Thành phần hóa học chính thân và rễ nhân sâm của là các Saponin triterpenoid nhóm dammaran, gọi chung là gingsenoid.

    Nhân Sâm (Thân Rễ Và Rễ)

  • Nhân Sâm (Thân Rễ Và Rễ)


    Thân rễ và rễ nhân sâm (Rhizoma et Radix Ginseng) là thân rễ và rễ đã phơi hay sấy khô của cây Nhân sâm (Panax ginseng C.A.Mey), thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Nhân sâm phân bố chủ yếu ở Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc và Liên Xô cũ, chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, nhân sâm sẽ có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào 2 kinh tỳ và phế. Dược liệu này có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí, chữa phế hư ho suyễn, tỳ hư tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Thành phần hóa học chính thân và rễ nhân sâm của là các Saponin triterpenoid nhóm dammaran, gọi chung là gingsenoid.

    Nhân Sâm (Thân Rễ Và Rễ)

  • Nhân Trần (Thân, Cành, Lá, Hoa)


    Cây Nhân trần (Herba Adenosmatis caerulei) là thân, cành mang lá và hoa đã phơi hay sấy khô của cây Nhân trần (Adenosma caeruleum R.Br.), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Nhân trần phân bố rộng rãi ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, và Hồng Kông. Tại Việt Nam, cây thường mọc hoang ở những đổi, những ruộng vùng trung du miền Bắc, nhiều nhất tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh. Nhân trần có tính khổ, tân, vi hàn, vào các kinh can đởm.Nhân trần dùng làm thuốc chữa sốt, ra mồ hôi, thông tiểu tiện, chữa bệnh vàng da, bệnh gan. Tác dụng dược lý của cây là tăng tiết mật và tăng thải độc của gan, chống viêm, kháng khuẩn, làm giảm tiết dịch vị, giảm độ acid tự do và acid toàn phần của dịch vị, làm giảm loét dạ dày. Cây Nhân trần chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học, bao gồm: Tinh dầu (limonene, β-caryophyllene và geraniol), Flavonoid (Luteolin và apigenin), Coumarin (Scoparone), Acid phenolic (Chlorogenic acid).

    Nhân Trần (Thân, Cành, Lá, Hoa)

  • Nhân Trần Tía (Thân, Cành, Lá, Hóa)


    Cây Nhân trần tía (Herba Adenosmatis bracteosi) là thân, cành mang lá và hoa đã phơi hay sấy khô của cây Nhân trần tía (còn gọi là Nhân trần Tây Ninh) (Adenosma bracteosum Bonati), họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cây phân bố khá phổ biến ở Lào, Campuchia. Tại Việt Nam, cây có phạm vi phân bố hạn chế, chỉ phát hiện ở một số tỉnh phía Nam. Nhân trần có tính khổ, tân, vi hàn, vào các kinh can đởm.Cây dùng trị viêm gan, vàng da, viêm túi mật, tiểu vàng, tiểu đục ít, phụ nữ sau sinh ăn chậm tiêu. Tác dụng dược lý là tăng tiết mật, kháng khuẩn, độc tính cấp. Cây Nhân trần chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học, bao gồm: Tinh dầu, coumarin, flavonoid, và acid phenolic.

    Nhân Trần Tía (Thân, Cành, Lá, Hóa)

  • Nhàu (Quả)


    Cây Nhàu có tên khoa học Morinda citrifolia L., thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Trên thế giới, cây phân bố ở nhiều nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan…Tại Việt Nam, cây chủ yếu mọc ở miền Nam. Cây Nhàu vị chát, người dân thường sử dụng lá, quả, vỏ rễ làm thuốc. Vỏ rễ chứa glucozit anthraquinon và nhiều hợp chất hóa học khác có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu nhẹ, làm êm dịu thần kinh trên thần kinh giao cảm, hạ huyết áp và không độc.

    Nhàu (Quả)

  • Nhàu (Rễ)


    Rễ Nhàu (Radix Morindae citrifoliae) là rễ cắt ngắn hoặc thái phiến phơi hay sấy khô của cây Nhàu (Morinda citrifolia L.), thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cây phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới châu Á, có nhiều ở miền nam Việt Nam. Theo tài liệu cổ, rễ cây nhàu có vị chát, tính bình, vào 2 kinh thận, đại tràng. Dược liệu này có tác dụng trừ phong thấp, nhuận tràng, bình can giáng nghịch, trị cao huyết áp. Vỏ rễ chứa nhiều hợp chất nhóm anthraglucozit, điển hình là moridin.

    Nhàu (Rễ)

  • Nhục Đậu Khấu (Hạt)


    Hạt Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là hạt đã phơi khô của cây Nhục đậu khấu (Myristica fragrans Houtt), thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Cây có nguồn gốc từ Maluku và được du nhập vào nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam. Theo tài liệu cổ, hạt nhục đậu khấu có tính tân, ôn, quy vào kinh tỳ, vị, đại tràng. Dược liệu dùng trijiar chảy lâu ngày, đau trướng bụng, đau thượng vị, biếng ăn và nôn mửa. Một số thành phần hóa học đã phân lập được từ hạt nhục đậu khấu là các nhóm carbohydrate, chất béo, tinh dầu, chất nhựa, flavonoid, terpene, các dẫn xuất của terpene và phenylpropanoids.

    Nhục Đậu Khấu (Hạt)

  • Nhục Thung Dung (Thân)


    Nhục thung dung (Herba Cistanches) là phần thân thảo, nạc, có chất thịt, có vảy, đã phơi khô của cây Nhục thung dung (Cistanche deserticola Y.C.Ma, hoặc Cistanche tubulosa (Schrenk) Wight), thuộc họ Lệ dương (Orobanchaceae). Cây phân bố chủ yếu ở Châu Á và Châu Phi. Nhục thung dung được sử dụng trong y học cổ truyền để trị liệt dương, đau lưng, vô sinh, khí hư, táo bón và huyết khô. Thành phần hóa học của nhục thung dung có các chất như boschnaloside, orobanin, 8-epilogahic acid, betaine, hơn 10 loại axit amin, alkaloid và axit hữu cơ.

    Nhục Thung Dung (Thân)

  • Núc Nác (Vỏ Thân)


    Núc nác (Cortex Oroxyli) là vỏ thân đã phơi hay sấy khô của cây Núc nác [Oroxylon indicum (L.) Vent.], họ Núc nác (Bignoniaceae). Núc nác phân bố rộng rãi ở Việt Nam từ Bắc vào Nam. Trong y học dân gian, vỏ cây núc nác được sử dụng để chữa các bệnh như đi ngoài, lỵ, dị ứng và các bệnh ngoài da, đồng thời cũng được dùng như một loại thuốc nhuộm màu vàng tự nhiên. Thành phần hóa học của núc nác bao gồm các ankaloid, tanin và các dẫn xuất flavonoid.

    Núc Nác (Vỏ Thân)

  • Ô Đầu (Rễ Củ)


    Ô Đầu (Radix Aconiti) là rễ củ chính đã phơi hay sấy khô của cây Ô đầu (Aconitum fortunei Hemsl. hoặc Aconitum carmichaeli Debx). thuộc họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây chủ yếu mọc hoang ở Trung Quốc, Nhật Bản,.., chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, ô đầu có tính tán, khổ, nhiệt, rất độc, vào 12 kinh, đặc biệt là kinh tâm can, thận tỳ. Dân gian sử dụng ô đầu ngâm rượu để xoa bóp khi bị đau nhức, mỏi chân tay. Ô đầu có tác dụng khu phong, trừ thấp tý, ôn kinh chỉ thống. Trong rễ củ Ô đầu chứa Alcaloid, chủ yếu là Aconitine, có khả năng kích thích đầu dây thần kinh ba nhánh gây tê liệt cơ thể, liều cao có tác dụng trên thần kinh cảm giác (gây ra hiện tượng kiến bò ở đầu ngón tay); thân nhiệt hạ thấp, mạch châm, nhỏ và không đều; chân xỉu xuống, khó bước đi; cuối cùng có thể chết do ngạt.

    Ô Đầu (Rễ Củ)

  • Ô Đầu (Rễ Củ)


    Ô Đầu (Radix Aconiti) là rễ củ chính đã phơi hay sấy khô của cây Ô đầu (Aconitum fortunei Hemsl. hoặc Aconitum carmichaeli Debx). thuộc họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây chủ yếu mọc hoang ở Trung Quốc, Nhật Bản,.., chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, ô đầu có tính tán, khổ, nhiệt, rất độc, vào 12 kinh, đặc biệt là kinh tâm can, thận tỳ. Dân gian sử dụng ô đầu ngâm rượu để xoa bóp khi bị đau nhức, mỏi chân tay. Ô đầu có tác dụng khu phong, trừ thấp tý, ôn kinh chỉ thống. Trong rễ củ Ô đầu chứa Alcaloid, chủ yếu là Aconitine, có khả năng kích thích đầu dây thần kinh ba nhánh gây tê liệt cơ thể, liều cao có tác dụng trên thần kinh cảm giác (gây ra hiện tượng kiến bò ở đầu ngón tay); thân nhiệt hạ thấp, mạch châm, nhỏ và không đều; chân xỉu xuống, khó bước đi; cuối cùng có thể chết do ngạt.

    Ô Đầu (Rễ Củ)

  • Ô Dược (Rễ)


    Ô được (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây Ô dược [Lindera aggregata (Sims) Kosterm.], thuộc họ Long não (Lauraceae). Cây mọc ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kong. Ở Việt Nam, cây tập trung ở các tỉnh miền Trung từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh, ngoài ra còn mọc hoang ở một số tỉnh phía Bắc như Hòa Bình, Hà Tây. Nhân dân sử dụng ô dược làm thuốc chữa đau bụng, đầy bụng, chữa chứng tiểu đêm, tiêu chảy; kết hợp với hạt cau, sắc uống để chữa giun sán ở trẻ nhỏ. Trong rễ Ô dược người ta xác định được sự có mặt các alkaloid như linderola, acid linderic, linderen, linderan,.. cùng 1 ceton và 1 chất linderazulen.

    Ô Dược (Rễ)

  • Phòng Kỷ (Rễ)


    Rễ Phòng Kỷ (Radix Stephaniae tetrandrae) là rễ đã phơi hay sấy khô của cây Phấn phòng kỷ (Stephania tetrandra S. Moore), thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).Cây có nguồn gốc từ các khu vực Trung Nam Trung Quốc, chưa thấy mọc ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, phòng kỷ có vị đắng, cay, và tính lạnh, tác động chủ yếu vào kinh bàng quang. Dược liệu này được sử dụng để điều trị nhiều bệnh lý như thủy thũng, cước khí, thấp thũng, và đau nhức khớp xương. Cây còn có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm (đặc biệt là nấm Candida albicans), kháng virus và chống viêm. Phòng Kỷ chứa nhiều thành phần hóa học quan trọng, trong đó nhóm alkaloid chiếm ưu thế. Các alkaloid chính gồm Tetrandrin; Demethyl Tetrandrin và Alkaloid Phenol. Ngoài ra, cây còn chứa flavonoid, diterpenoid, sesquiterpenoid, tinh dầu, acid hữu cơ như acid citric và acid malic

    Phòng Kỷ (Rễ)

  • Phòng Phong (Rễ)


    Rễ Phòng Phong(Radix Saposhnikoviae divaricatae) là rễ đã được phơi khô của cây Phòng phong [Saposhnikovia divaricata (Turcz.) Schischk.], họ Hoa tán (Apiaceae). Cây phân bố chủ yếu tại Trung Quốc, chưa được trồng ở Việt Nam. Theo tai liệu cổ, rễ phòng phong có tính tân, cam, ôn, vào kinh can, phế, vị, bàng quang. Dân gian dùng rễ phòng phong để hạ sốt, chữa cảm mạo biểu chứng ra mồ hôi, nhức đầu choáng váng, mắt mờ, trừ phong, đau các khớp xương. Tác dụng dược lý mới tìm thấy của dược liệu này là hạ nhiệt và ức chế miễn dịch. Thành phần hóa học trong rễ phòng phong bao gồm 13 chất coumarin, chromon và polyacetylen, chủ yếu là khellaceton dieste. Đã phân lập được 5 hợp chất là umbelliferon, silindin, anomalin, nodakenin và acid ferulic.

    Phòng Phong (Rễ)

  • Phụ Tử (Rễ Củ Nhánh Đã Phơi Hay Sấy Khô Của Cầy Ô Đầu )


    Phụ Tử (Radix Aconiti lateralis) là rễ củ nhánh đã phơi hay sấy khô của cây Ô đầu (Aconitum fortunei Hemsl. hoặc Aconitum carmichaeli Debx.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây phân bố rải rác khắp vùng ôn đới ấm Bắc bán cầu. Tại Việt Nam, cây được trồng tập trung ở Sapa và Hà Giang. Theo tài liệu cổ, phụ tử có tính tân, cam, đại nhiệt, có độc, vào kinh tâm, thận, tỳ. Phụ tử có tác dụng trợ tim, trị đau nhức xương khớp, lưng gối đau lạnh và chân tay phù nề. Tác dụng dược lý của dược liệu được tìm thấy trên tim, huyết áp, thần kinh, giảm đau, chống viêm,... Thành phần hóa học chứa nhiều terpenoid ester alcaloid và hợp chất quan trọng nhất là aconitine.

    Phụ Tử (Rễ Củ Nhánh Đã Phơi Hay Sấy Khô Của Cầy Ô Đầu )

  • Qua Lâu (Quả)


    Qua lâu (Quả) (Fructus Trichosanthis) là quả chín đã bỏ hạt được phơi hay sấy khô của cây Qua lâu (Trichosanthes kirilowii Maxim.), hoặc cây Song biên qua lâu (Trichosanthes rosthornii Harms), họ Bí (Cucurbitaceae). Qua lâu là loài cây bản địa tại Campuchia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào và Việt Nam, đặc biệt được phát hiện nhiều ở Cao Bằng. Quả qua lâu có tính cam, vi khổ, hàn, vào các kinh phế, vị, đại tràng. Dược liệu dùng trị ho đờm do phế nhiệt, đau thắt ngực, kết hung đầy bĩ ngực và thượng vị, nhũ ung, phế ung, trường ung, đại tiện bí kết. Thành phần chính của quả qua lâu gồm có alkaloids, triterpenoids, saponins, polysaccharides, hợp chất phenolic, flavonoids, và amino acids.

    Qua Lâu (Quả)

  • Quế (Cành)


    Quế (Cành) (Quế chi) (Ramulus Cinnamomi) là cành phơi hay sấy khô của cây Quế (Cinnamomum cassia Presl) hoặc một số loài Quế khác (Cinnamomum zeylanicum Blume, Cinnamomum loureirii Nees.), họ Long não (Lauraceae). Cây phân bố chủ yếu dọc dãy Trường Sơn từ Thanh Hóa đến Quảng Ngãi. Cành quế có tính tân, cam, ôn, vào kinh phế, tâm, bàng quang. Dược liệu dùng trị cảm mạo phong hàn, khí huyết ứ trệ, phù, đái không thông lợi. Tác dụng dược lý của quế chi bao gồm kích thích tuần hoàn, tăng nhu động ruột, chống viêm, kháng khuẩn, và hỗ trợ tiêu hóa. Thành phần chính của cành quế là tinh dầu (cinnamaldehyde), hợp chất phenolic, flavonoids, và coumarins, với cinnamaldehyde là biomarker quan trọng.

    Quế (Cành)

  • Rau Đắng Đất (Toàn Cây)


    Rau đắng đất (Herba Glinni oppositifolii) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây Rau đắng đất [Glinus oppositifolius (L.) A. DC.], thuộc họ Rau đắng đất (Molluginaceae). Cây phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới châu Á và được tìm thấy dọc theo các tỉnh ven biển Việt Nam. Theo y học cổ truyền, rau đắng đất có vị đắng, tính mát, công năng tiêu viêm, sát trùng, giải độc, lợi tiểu và chỉ ngứa. Dược liệu này được dùng để chữa các bệnh về đường tiêu hóa như táo bón, kiết lỵ, cũng như các bệnh đường tiết niệu như tiểu buốt, viêm bàng quang, sỏi thận và viêm thận gây phù nề. Thành phần hóa học của dược liệu chủ yếu là saponin và flavonoid.

    Rau Đắng Đất (Toàn Cây)

  • Rau Má (Toàn Cây)


    Rau má (Centella asiatica) là toàn cây tươi hoặc phơi khô của cây Rau má (Centella asiatica Urb.), thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Cây phân bố ở các vùng nhiệt đới như Lào, Campuchia, Indonesia, Ấn Độ và mọc hoang khắp nơi tại Việt Nam. Trong y học dân gian, rau má được sử dụng như một vị thuốc mát, có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc, có tác dụng giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới và lợi sữa. Theo Đông y, rau má còn có tác dụng thanh nhiệt, dưỡng âm, lợi tiểu, nhuận gan và giải độc. Thành phần hóa học của rau má bao gồm alkaloid hydrocotylin, glucosid asiaticosid, centelloside và saponin (acid asiatic, axit brahmic), với cấu trúc tri-tecpen.

    Rau Má (Toàn Cây)

  • Râu Ngô (Râu Ngô)


    Râu ngô (Styli et stigmata Maydis) là Là vòi và đầu nhụy của bắp cây Ngô (Zea mays L. ), họ Lúa (Poaceae), được thu hái khi bắp chín, đem phơi khô hoặc sấy khô. Cây được cho là bắt nguồn từ Mexico và Guatemala, sau đó di thực đến khắp nơi trên thế giới. Tại Việt nam, ngô được trồng ở khắp các địa phương, đặc biệt là các tỉnh trung du và miền núi. Râu ngô có vị ngọt, tính bình, vào kinh thận và bàng quang. Râu ngô dùng trị tiểu tiện buốt, dắt; nước tiểu vàng đỏ, sỏi đường tiết niệu, viêm gan, viêm túi mật, sỏi mật, tăng huyết áp, tiểu đường, chảy máu cam. Râu ngô có các thành phần hóa học như chất béo, tinh dầu, chất gôm, chất nhựa, glucosid đắng, saponin, cryptoxanthin, các vitamin C và K, sitosterol, stigmasterol, nhiều acid hữu cơ (acid malic, acid tartric…), anthocyan.

    Râu Ngô (Râu Ngô)

  • Rẻ Quạt (Thân Rễ)


    Xạ can (Rhizoma Belamcandae) là thân rễ của cây xạ can (Belamcanda chinensis (L.) DC.), thuộc họ La Dơn (Iridaceae). Xạ can phân bố chủ yếu ở châu Á, bao gồm Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, và đã được du nhập vào một số khu vực ở châu Mỹ và châu Đại Dương. Ở Việt Nam, cây mọc hoang khắp nơi, đặc biệt tại các vùng savan. Theo tài liệu cổ, xạ can có vị đắng, tính hàn, hơi độc, quy vào hai kinh can và phế, dùng để thanh nhiệt, giải độc, tán huyết và tiêu đờm. Xạ can thường được sử dụng để chữa yết hầu sưng đau, nghẽn đờm ở cổ họng, nhưng không phù hợp với người tỳ vị hư hàn. Xạ can chứa các thành phần hóa học như glucozit belamcandin (C24H24O12) và tectoridin (C22H22O11). Ngoài ra, còn có iridin (C24H28O4) và shekanin (xạ can tố) với hiệu suất 0,05%.

    Rẻ Quạt (Thân Rễ)

  • Riềng (Thân Rễ)


    Riềng (thân rễ) (Rhizoma Alpiniae officinari) là thân rễ đã phơi khô của cây Riềng (Alpinia officinarum Hance), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây có ở Trung Quốc, được phân bố rộng khắp trên đất nước ta. Riềng có tính tân, nhiệt. Quy vào các kinh tỳ, vị. Dược liệu này dùng trị thượrng vị đau lạnh, nôn mửa, vị hàn ợ chua.Trong riềng có từ 0,5-1% tinh dầu chủ yếu có xineola và methylxinnamat, và ba chất có tinh thể, không có vị, đều là dẫn xuất của flavon.

    Riềng (Thân Rễ)

  • Riềng (Thân Rễ)


    Riềng (thân rễ) (Rhizoma Alpiniae officinari) là thân rễ đã phơi khô của cây Riềng (Alpinia officinarum Hance), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây có ở Trung Quốc, được phân bố rộng khắp trên đất nước ta. Riềng có tính tân, nhiệt. Quy vào các kinh tỳ, vị. Dược liệu này dùng trị thượrng vị đau lạnh, nôn mửa, vị hàn ợ chua.Trong riềng có từ 0,5-1% tinh dầu chủ yếu có xineola và methylxinnamat, và ba chất có tinh thể, không có vị, đều là dẫn xuất của flavon.

    Riềng (Thân Rễ)

  • Sa Nhân (Quả)


    Sa nhân là cây thân thảo có tên khoa học là Amomum villosum Lour., thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Phân bố chủ yếu Đông Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Tại Việt Nam, Sa nhân mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền núi nước ta, miền Bắc cũng như miền Trung. Theo tài liệu cổ, sa nhân có vị cay, tính ôn, vào các kinh tỳ, thận và vị, có tác dụng hành khí, điều trung, hòa vị, làm cho tiêu hóa được dễ dàng. Dùng trong những trường hợp đau bụng, đầy bụng, ăn không tiêu, tả lỵ. Thành phần hóa học chính của Sa nhân bao gồm nhóm saponin và các chất tiêu biểu như bornyl acetate (C12H20O2) và camphor (C10H16O), được ghi nhận trong Dược điển Hong Kong, mang lại hiệu quả trong việc cải thiện tiêu hóa và giảm các triệu chứng khó chịu ở đường tiêu hóa.

    Sa Nhân (Quả)

  • Sa Nhân (Quả)


    Sa nhân là cây thân thảo có tên khoa học là Amomum villosum Lour., thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Phân bố chủ yếu Đông Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Tại Việt Nam, Sa nhân mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền núi nước ta, miền Bắc cũng như miền Trung. Theo tài liệu cổ, sa nhân có vị cay, tính ôn, vào các kinh tỳ, thận và vị, có tác dụng hành khí, điều trung, hòa vị, làm cho tiêu hóa được dễ dàng. Dùng trong những trường hợp đau bụng, đầy bụng, ăn không tiêu, tả lỵ. Thành phần hóa học chính của Sa nhân bao gồm nhóm saponin và các chất tiêu biểu như bornyl acetate (C12H20O2) và camphor (C10H16O), được ghi nhận trong Dược điển Hong Kong, mang lại hiệu quả trong việc cải thiện tiêu hóa và giảm các triệu chứng khó chịu ở đường tiêu hóa.

    Sa Nhân (Quả)

  • Sài Hồ (Rễ)


    Rễ Sài hồ (Radix Bupleuri chinensis) là rễ đã phơi hay sấy khô của cây Bắc Sài hồ (Bupleurum chinense DC.), họ Hoa tán (Apiaceae). Cây phân bố ở nhiều nơi trên thế giới như Trung Quốc, Nội Mông, Hàn Quốc, chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, rễ sài hồ có tính khổ, tân, vi, hàn, quy vào các kinh: can, đởm, tâm bào, tam liêu. Rễ sài hồ được sử dụng để chữa bệnh sốt và sốt rét. Một số thành phần hóa học đã được phát hiện và xác định cấu trúc thuộc các nhóm saponin, tinh dầu, flavonoid, triterpenoid, carbohydrate.

    Sài Hồ (Rễ)

  • Sen (Cây Mầm)


    Sen (Nelumbo nucifera Gaertn.), thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Đây là một loại cây thủy sinh quen thuộc, phân bố ở khắp Việt Nam. Phần mầm của hạt sen, hay còn gọi là tâm sen, từ lâu đã được sử dụng trong y học cổ truyền. Với vị đắng, tính hàn, tâm sen có khả năng thanh nhiệt, an thần, giúp cải thiện giấc ngủ và giảm căng thẳng. Y học hiện đại đã chứng minh, tâm sen có khả năng an thần, bình tĩnh dục tính và ổn định nhịp tim. Chính nhờ những thành phần hóa học phong phú, đặc biệt là các alkaloid như liensinin, isoliensinin… đã góp phần làm nên những giá trị dược liệu đặc trưng của tâm sen.

    Sen (Cây Mầm)

  • Sen (Hạt)


    Sen (hạt) (Semen Nelumbinis nuciferae) là hạt đã bỏ vỏ cứng và cây mầm, được phơi hay sấy khô của quả già của cây Sen (Nelumbo nucifera Gaertn.), họ Sen (Nelumbonaceae). sen được trồng khắp nước ta. Hạt sen có vị ngọt, tính bình, vào kinh tỳ, thận, tâm. Hạt sen có tác dụng dược lý như chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh, an thần, chữa bệnh di tinh, và còn dùng để chữa tiêu chảy, bệnh tả, kiết lỵ,… Trong hạt sen có chứa asparagin và một ít alkaloid (điển hình là nelumbin).

    Sen (Hạt)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Sen (Lá)


    Lá sen (Folium Nelumbinis nuciferae), một phần của cây sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbonaceae). Cây phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ xa xưa, nhân dân ta đã sử dụng lá sen như một bài thuốc giúp tháng thanh tán ứ, thanh thử hành thuỷ. Dùng chữa thử thấp tiết tả, thuỷ chí phù thũng, lỗi đầu phong, nôn ra máu, máu cam, băng trung huyết lỵ. Y học hiện đại đã chứng minh, trong lá sen chứa nhiều thành phần hóa học như tanin, alkaloid, flavonoid… Chính những chất này đã giúp lá sen có tác dụng dược lý an thần, bình tĩnh dục tính, ổn định nhịp tim, cầm máu và ứng dụng trong nhiều loại thuốc hiện nay.

    Sen (Lá)

  • Thăng Ma (Thân Rễ)


    Thăng ma (thân rễ) (Rhizoma Cimicifugae) là thân rễ đã phơi hay sấy khô của các loài Thăng ma Cimicifuga heracleifolia Kom., Cimicifuga dahurica (Turez.) Maxim, hoặc Cimicifuga foetida L., họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Thăng ma phân bố chủ yếu ở Bắc Mỹ và được di thực vào Đức, chưa có ở Việt Nam. Theo tài liệu cổ, thân rễ thăng ma có tính tân, vi cam, vi hàn, vào các kinh phế, tỳ, vị, đại tràng. Dược liệu này có tác dụng thấu chẩn, tán phong, giải độc và thăng dương khí, thường được sử dụng để chữa các bệnh phong nhiệt như nhức đầu, đau răng, sưng họng, sởi không mọc, dương độc phát ban, sa trực tràng, sa dạ con. Thành phần hóa học của thăng ma chủ yếu là alkaloid, với biomarker cimitin. .

    Thăng Ma (Thân Rễ)

  • Thanh Bì (Vỏ Quả Xanh)


    Thanh Bì (Pericarpium Citri Reticulatae Viride) là vỏ quả non hoặc vỏ quả chưa chín, phơi hay sấy khô của cây Quýt (Citrus reticulata Blanco), thuộc họ Cam (Rutaceae). Loài cây này được trồng phổ biến tại Đông Nam Á và các vùng nhiệt đới, đặc biệt phân bố rộng rãi ở nhiều địa phương tại Việt Nam. Theo y học cổ truyền, thanh bì là một vị thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa, giảm đầy hơi, chống viêm, kháng khuẩn, và hỗ trợ điều trị ho đờm. Dược liệu này còn được sử dụng trong các trường hợp đau tức vùng hông sườn, kinh nguyệt không đều, và rối loạn tiêu hóa. Thành phần hóa học chính của thanh bì bao gồm: Tinh dầu (Limonene - hoạt chất tạo mùi đặc trưng), Flavonoid (Hesperidin, Naringin).

    Thanh Bì (Vỏ Quả Xanh)

  • Thanh Cao Hoa Vàng (Lá)


    Lá thanh cao hoa vàng (Folium Artemisiae annuae) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Thanh cao hoa vàng (Artemisia annua L.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây mọc hoang ở Trung Quốc, Liên Xô cũ, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây có ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và đang được trồng thử ở vùng đồng bằng sông Hồng. Theo tài liệu cổ, thanh cao có vị đắng, tính hàn. Dân gian sử dụng lá thanh cao hoa vàng chữa đau xương, mồ hôi trộm, sốt rét, lở ngứa. Theo khoa học hiện nay, lá thanh cao hoa vàng dược dùng làm nguyên liệu chiết artemisinin để chữa sốt, sốt rét. Artemisinin (C15H22O5) là một sesquiterpen lacton chứa nhóm peroxyt nội, chính nhóm này quyết định tác dụng diệt ký sinh trùng sốt rét.

    Thanh Cao Hoa Vàng (Lá)

  • Thảo Quả (Quả)


    Thảo Quả (Fructus Amomi aromatici) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb.), họ Gừng (Zingiberaceae). Cây thảo quả phân bố chủ yếu tại các khu vực Đông Nam Á và các vùng núi cao phía Bắc Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang và Lai Châu. Theo y học cổ truyền, thảo quả được sử dụng để chữa trị các bệnh lý liên quan đến hệ tiêu hóa như khó tiêu, đầy hơi, đau dạ dày, và các chứng ho. Thành phần hóa học chính của thảo quả gồm tinh dầu với các hợp chất thơm như eucalyptol và zingiberene, tạo nên hương thơm đặc trưng và các tác dụng sinh học nổi bật.

    Thảo Quả (Quả)

  • Thảo Quyết Minh (Hạt)


    Thảo Quyết Minh (hạt) (Semen Sennae torae) là hạt già đã phơi hay sấy khô của cây Thảo quyết minh còn gọi là Quyết minh, Muồng [Senna tora (L.) Roxb.; Syn. Cassia tora L.], họ Đậu (Fabaceae). Cây phân bố rộng rãi ở nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Tại Việt Nam, Thảo Quyết Minh mọc hoang khắp nơi. Hạt thảo quyết minh có tính hàm, bình, quy vào các kinh can, thận, đại tràng. Dược liệu này dùng trị đau mắt đỏ, sợ ánh sáng, mắt mờ, chảy nước mắt, táo bón, mất ngủ, diệt khuẩn, điều trị các bệnh ngoài da như hắc lào và chàm trẻ em. Thành phần hóa học chính của quả Thảo Quyết Minh gồm nhóm anthranoid, với các hoạt chất chủ yếu như antraglucozit, rein, và crysophanol, đóng góp vào các tác dụng dược lý của cây.

    Thảo Quyết Minh (Hạt)

  • Thị Đế


    Thị đế có tên khoa học là Diospyros kaki L.f, họ Thị (Ebenaceae). Tại Việt Nam cây được trồng tại khắp các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Bài thuốc có thị đế dùng trong nhân dân để chữa đầy bụng, nấc: thị đế 8g, đinh hương 8g, sinh khương 5 lát, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Trong khi dùng, cần tuỳ trường hợp thêm bớt vị đinh hương và thị đế, ví dụ nóng nhiều thì giảm đinh hương, tăng thị đế, ngược lại lạnh nhiều thì tăng đinh hương, giảm thị đế. Thị đế có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa. Thị đế có chứa các thành phần hóa học chính là tanin thuộc nhóm polyphenol. Trong tanin có chứa nhiều loại axit như axit tritecpenic, oleanolic, axit ursolic, axit betulinic.

    Thị Đế

  • Thiên Ma (Thân Rễ)


    Thiên ma có tên khoa học Gastrodia elata BI, họ Lan (Orchidaceae). Có nguồn gốc từ Assam, Trung Quốc, Đông Himalaya, Nội Mông, Nhật Bản,... Tại Việt Nam, loại thảo dược này chủ yếu phân bố ở các tỉnh vùng núi (Lạng Sơn, Hòa Bình…). Dân gian sử dụng trị đau đầu hoa mắt chóng mặt bằng bài thuốc: thiên ma 15g, xuyên khung 5g, chế thành hoàn, mỗi lần uống 3 – 6g, ngày 3 lần; trị đau khớp, chân tay tê dại bằng bài thuốc: ngưu tất 10g, thiên ma 10g, toàn yết 3g, nhũ hương 5g, tán bột mịn hồ làm hoàn hoặc sắc uống. Thiên ma có tác dụng an thần chống co giật, làm giảm đau, kháng viêm, tăng cường lưu lượng máu ở tim và não, làm giảm lực cản của mạch máu, làm giãn mạch ngoại vi, có tác dụng hạ áp, làm chậm nhịp tim, nâng cao sức chịu đựng thiếu oxy của động vật thí nghiệm, ngoài ra polysaccharide của thiên ma có hoạt tính miễn dịch. Thành phần hóa học chứa thành phần chủ yếu là gastrodin với hàm lượng 0,16-1,18% , gastrdiosid, benzyl citrat, acid succinic, acid citric cùng với monomethyl ester, acid palmitic, sucrose, 𝛃-sitosterol và các Polysaccharide, Vanillyl alcohol.

    Thiên Ma (Thân Rễ)

  • Thiên Môn Đông (Rễ)


    Thiên môn đông (Radix Asparagi cochinchinensis), là rễ đã chế biến phơi hay sấy khô của cây Thiên môn đông [Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr.], thuộc họ Thiên môn đông (Asparagaceae). Cây phân bố chủ yếu ở châu Á và mọc hoang ở nhiều nơi tại Việt Nam. Theo y học cổ truyền, thiên môn đông có tác dụng lợi tiểu, đồng thời được sử dụng trong các trường hợp kháng khuẩn, giảm ho, và ức chế khối u. Thành phần hóa học chính của thiên môn đông là asparagin, mang lại các lợi ích dược lý và giá trị ứng dụng trong y học hiện đại.

    Thiên Môn Đông (Rễ)

  • Thiên Trúc Hoàng


    Thiên trúc hoàng (Concretio Silicae Bambusae) là cặn khô từ chất tiết trong thân cây Hóp sào hoặc cây Nứa (Bambusa textilis McClure hoặc Schizostachyum chinense Rendle), thuộc họ Lúa (Poaceae). Cây phân bố tại Trung Nam-Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, đồng thời được di thực đến châu Mỹ, châu Đại Dương, và châu Âu. Theo y học cổ truyền, thiên trúc hoàng được sử dụng để chữa kinh giật ở trẻ em, sốt mê man, cảm không nói được, và ho trừ đờm. Thành phần hóa học của thiên trúc hoàng bao gồm kali hydroxyl (1,1%), silic (90,5%), Al₂O₃ (0,9%), Fe₂O₃ (0,9%), và một lượng nhỏ canxi carbonat.

    Thiên Trúc Hoàng

  • Thổ Hoàng Liên (Thân Rễ)


    Thổ hoàng liên (thân rễ), tên khoa học là Rhizoma Thalictri foliolosi thuộc họ Hoàng Liên - Ranunculaceae. Phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, Nepal, Thái Lan,...ở Việt Nam mới phát hiện mọc nhiều ở vùng Tây Bắc đặc biệt ở Tủa Chùa, đã đem trồng thí nghiệm tại vườn thuốc SaPa (Lào Cai) và Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Thành phần hóa học chính của thổ hoàng liên là các alcaloid như berberin, palmatin, jatrorrhizin,... có tác dụng dược lý là kháng khuẩn, tuy nhiên gây độc tính cấp (thử nghiệm trên chuột). Theo y học cổ truyền, thổ hoàng liên có vị rất đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong; chữa các bệnh về đường tiêu hóa: lỵ, hoàng đản, đầy hơi; dùng ngoài chữa đau mắt và mụn nhọt.

    Thổ Hoàng Liên (Thân Rễ)

  • Thổ Phục Linh (Thân Rễ)


    Thân rễ thổ phục linh (Rhizoma Smilacis) là thân rễ phơi hay sấy phổ của của cây Thổ phục linh, còn có tên là Khúc khắc (Smilax glabra Roxb.), họ Khúc khắc (Smilacaceae). Thổ phục linh phân bố ở châu Á, đặc biệt là Ấn Độ, Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Ở Việt Nam, cây mọc hoang khắp nơi. Theo tài liệu cổ, thân rễ thổ phục linh có tính cam, đạm, bình, vào 2 kinh can, vị. Thổ phục linh là thuốc dùng trong cả đông y và tây y làm thuốc tẩy máu, làm ra mồ hôi, chữa giang mai. Trong đông y dược liệu có tác dụng khử phong thấp, lợi gân cốt, giải độc cho thủy ngân, chữa đau xương, ác sang ung thũng, tẩy độc cơ thể, bổ dạ dày, khỏe gân cốt. Thành phần hóa học của thân rễ thổ phục linh gồm có saponin, tanin, chất nhựa với dược chát tiềm năng là astibin.

    Thổ Phục Linh (Thân Rễ)

  • Thỏ Ty Tử


    Thỏ ty tử (Hạt tơ Hồng) có tên khoa học là Semen Cuscutae sinensis thuộc họ Tơ hồng (Cuscutaceae). Phân bố phổ biến trên khắp đất nước ta nhưng ít thấy ra hoa, vì vậy Thỏ ty tử vẫn phải nhập chủ yếu ở Trung Quốc. Thành phần hóa học bao gồm các alcaloid, flavonoid, acid hữu cơ, lignan, dầu béo,... với tác dụng dược lý có khả năng kích thích hệ miễn dịch và ngăn chặn sự phát triển khối u khi dùng trên chuột. Theo y học cổ truyền, Thỏ ty tử có tính bình, vị cay ngọt, có tác dụng tăng cường chức năng thận, cải thiện suy nhược thần kinh, lợi tiểu, hỗ trợ thai kỳ, cải thiện tình trạng tiêu chảy và các tác dụng làm sáng mắt

    Thỏ Ty Tử

  • Thông Thảo (Lõi Thân)


    Lõi thân Thông thảo (Medulla Tetrapanacis papyriferi) là lõi thân khô của thân cây Thông thảo [Tetrapanax papyrilera (Hook.) K. Koch], thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Thông thảo thường được tìm thấy ở các vùng nhiệt và ôn đới, chủ yếu ở Đông Á. Ở Việt Nam, cây được mới khai thác một số nơii ở những nơi ẩm vùng Cao Bằng, Lạng sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Theo tài liệu cổ, thông thảo có vị ngọt, nhạt, tính hàn, quy vào 2 kinh phế, vị. Lõi thân thông thảo có tác dụng lợi tiểu, thanh thấp nhiệt, hạ sữa, chữa thủy thũng. Theo một số nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc, trong lõi thân thông thảo có một số thành phần hóa học có hoạt tính hóa học, chủ yếu là triterpenoid và saponin triterpenoid.

    Thông Thảo (Lõi Thân)

  • Thương Truật (Thân Rễ)


    Thương truật (Rhizoma Atractylodis) là thân rễ đã phơi khô của cây Mao thương truật (Atractylodes lancea (Thunb.) DC.), thuộc họ Cúc (Asteraceae). Thương truật phân bố chủ yếu ở Amur, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Việt Nam. Theo y học cổ truyền, Thương truật cay, tính ấm, vào kinh tỳ và vị, liều dùng tối đa 9g/ngày. Thương truật thường được dùng kết hợp với các dược liệu khác để chữa bệnh như Bình vị tán (chữa viêm dạ dày, đầy bụng, nôn mửa) và Cao bạch truật (chữa ỉa lỏng). Thương truật có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa, điều trị tiểu đường, các bệnh cơ xương khớp, và hạ huyết áp. Thành phần hóa học chính gồm tinh dầu với các hoạt chất như atractylola (C15H26O) và atractylon (C14H18O).

    Thương Truật (Thân Rễ)

  • Tía Tô (Lá)


    Lá Tía tô (Folium Perillae frutescensis) là lá (hoặc lẫn nhánh non) còn tươi hoặc đã phơi, sấy khô của cây Tía tô (Perilla frutescens (L.) Britt.), thuộc họ Bạc hà (Lamiaceae). Tía tô phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới và ôn đới châu Á. Ở Việt Nam, Tía tô được trồng rộng rãi để làm gia vị và thuốc. Theo tài liệu cổ, Tía tô cay, tính ấm, vào hai kinh phế và tỳ, liều dùng tối đa 10g/ngày. Lá tía tô thường được dùng chữa cảm mạo, sốt, ho, nhức đầu, đau khớp, trúng độc do ăn cua cá, và sưng vú. Lá chứa 0,5% tinh dầu, gồm perilla-andehyt (55%), limonen (20-30%), α-pinen, và dihydrocumin, cùng với adenin và arginin.

    Tía Tô (Lá)

  • Tía Tô (Quả)


    Tía tô (Quả) (Fructus Perillae frutescensis) là quả của cây Tía tô (Perilla frutescens), thuộc họ Bạc hà (Lamiaceae). Tía tô là loài bản địa phổ biến ở các khu vực Đông Á, Nam Á, và Đông Nam Á, đồng thời được di thực sang châu Âu, châu Mỹ, và châu Phi. Theo kinh nghiệm sử dụng trong y học cổ truyền, quả Tía tô có công năng phát tán phong hàn, lý khí khoan hung, giải uất, hóa đờm, an thai, và giải độc do cua cá. Tác dụng dược lý chính bao gồm kháng khuẩn, giảm viêm, hỗ trợ tiêu hóa, hóa đờm, và làm dịu triệu chứng do nhiễm lạnh. Thành phần hóa học của quả Tía tô bao gồm các hoạt chất như perilla-andehyt (C10H14O), limonen, α-pinen, dihydrocumin (C10H14O), xyanin clorit (C27H31O16Cl), adenin (C5H5N5), và acginin (C6H14N4O2), mang lại hiệu quả trong điều trị các bệnh lý liên quan đến phong hàn, khí uất, và đờm.

    Tía Tô (Quả)

  • Tía Tô( Thân)


    Tía Tô (Thân) hay còn gọi là Tô ngạnh có tên khoa học là Caulis Perillae frutescensis là thân đã phơi hay sấy khô của cây Tía tô [Perilla Frutescens (L.) Britt.] thuộc họ hoa môi (Lamiaceae). Cây có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Đức, Nga,.. Ở nước ta cây được trồng khắp nước để lấy lá ăn, làm gia vị và làm thuốc. Trong cây có các nhóm chất hoá học như tinh dầu, flavonoid, triterpen. Lá tía tô (tô diệp) có tác dụng làm cho ra mồ hôi, chữa ho, giúp sự tiêu hoá, giảm đau, giải độc, chữa cảm mạo, còn có tác dụng chữa bị ngộ độc nôn mửa, đau bụng do ăn của cá. Cành tía tô (tử tô tử) có tác dụng chữa ho, trừ đờm, hen suyễn, tê thấp. Trong dân gian, cây tía tô được sử dụng để chữa trúng độc đau bụng do ăn phải cua cá, chữa sưng vú hay dùng để chữa cảm mạo, sốt, nhức đầu, đau xương khớp.

    Tía Tô( Thân)

  • Tiền Hồ (Rễ)


    Tiền Hồ (Radix Peucedani) là rễ đã phơi hoặc sấy khô của cây Tiền hồ (Angelica decursiva [Miq.] Franch. & Sav) hoặc cây Tiền hồ hoa trắng (Kitagawia praeruptora [Dunn] Pimenov), thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Trên thế giới, tiền hồ phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Đài Loan, trong khi tiền hồ hoa trắng chỉ được tìm thấy tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, cây tiền hồ đã được phát hiện tại khu vực Đồng Đăng (Lạng Sơn). Tiền hồ là một vị thuốc quan trọng trong y học cổ truyền, được sử dụng chủ yếu để hỗ trợ điều trị các bệnh lý về đường hô hấp. Trong dân gian, tiền hồ thường được sử dụng để chữa viêm khí quản và các trường hợp đờm khó tiết ra. Thành phần hóa học chính của tiền hồ bao gồm coumarin và tinh dầu, mang lại nhiều tác dụng dược lý.

    Tiền Hồ (Rễ)

  • Tô Mộc


    Tô mộc (Lignum Sappan) là gỗ lõi để nguyên hay chẻ nhỏ được phơi hay sấy khô của cây Vang (Caesalpinia sappan L.), thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây phân bố rộng rãi ở Đông Nam Á và Việt Nam. Theo tài liệu cổ, tô mộc có tính cam, hàm, bình, quy vào các kinh tâm, can, tỳ. Tô mộc được sử dụng để điều hòa kinh nguyệt, giảm đau, kháng vi trùng và kháng histamine. Thành phần hóa học chính bao gồm tinh dầu, acid galic, tannin, brazilin và sappanin.

    Tô Mộc

  • Tỏi (Củ)


    Tỏi (Bulbus Allii sativi) là lá dự trữ được phơi khô của cây Tỏi (Allium sativum L.), họ Hành (Alliaceae). Cây phân bố rộng rãi trên khắp thế giới, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới và ôn đới. Theo tài liệu cổ, tỏi có tính tân, ôn, quy vào các kinh phế, tỳ, vị. Tỏi đã được sử dụng từ lâu đời có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, hạ cholesterol và tăng cường miễn dịch. Thành phần chính của tỏi gồm các hợp chất chứa lưu huỳnh như allicin, alliin và ajoene

    Tỏi (Củ)

  • Trạch Tả (Thân Rễ)


    Trạch tả (Rễ củ) (Rhizoma Alismatis) là rễ củ đã qua xử lý của cây Trạch tả (Alisma plantago-aquatica subsp. orientale (Sam.) Sam.), thuộc họ Trạch tả (Alismataceae). Cây thường mọc hoang ở nơi ẩm ướt tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, và Lạng Sơn, hiện được trồng ở nhiều nơi như Nam Hà, Thái Bình, Hà Tây, và Hoà Bình. Theo y học cổ truyền, Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, với công năng lợi tiểu, thanh nhiệt, và điều hòa chuyển hóa lipid, thường được dùng để chữa thủy thũng, viêm thận, bể thận, tiểu khó, tiểu máu, nhức đầu, chóng mặt, mỡ máu cao, béo phì, di tinh, và lợi sữa. Thành phần hóa học chính bao gồm triterpenoids (alisol B acetate, alisol A 24-acetate), sesquiterpenoids (alismoxide, alismol), phenylpropanoid, và alkaloid. Các nghiên cứu cho thấy Trạch tả có tác dụng lợi tiểu, bảo vệ thận, chống tăng lipid máu, chống oxy hóa, bảo vệ thần kinh, điều hòa miễn dịch, chống loãng xương, kháng khuẩn, và kháng vi-rút.

    Trạch Tả (Thân Rễ)

  • Tràm (Cành Và Lá)


    Tràm (Ramulus cum folio Melaleucae) là cành mang lá đã phơi hay sấy khô của cây Tràm gió (Melaleuca cajeputi Powell), thuộc họ Sim (Myrtaceae). Loài cây này phân bố tự nhiên tại châu Á và châu Đại Dương, mọc hoang ở khắp nơi từ Bắc vào Nam Việt Nam. Trong y học cổ truyền, tràm gió có tác dụng sát trùng đường hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp, chữa viêm nhiễm đường hô hấp, và điều trị các triệu chứng như cảm sốt, ngạt mũi, ho, và đau nhức xương khớp. Cành và lá tràm chứa khoảng 2,5% tinh dầu, trong đó thành phần chính là 1,8-cineol (biomarker), cùng với flavonoid và tannin.

    Tràm (Cành Và Lá)

  • Tri Mẫu (Thân Rễ)


    Tri mẫu (Rhizoma Anemarrhenae) là phần thân rễ phơi hoặc sấy khô của cây Tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides Bunge), thuộc họ Hành (Liliaceae). Loài dược liệu này có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo tài liệu cổ, tri mẫu có vị đắng, tính lạnh, không độc, có tác dụng tu thân, bổ thủy, tả hỏa, thường được dùng để chữa bệnh tiêu khát (đái đường), hạ thủy, ích khí. Tác dụng dược lý của tri mẫu bao gồm bảo vệ thần kinh, tác dụng lên hệ máu, chống khối u, và chống viêm. Thành phần hóa học của tri mẫu chứa một chất saponin gọi là asphonin, ngoài ra còn có các steroid, coumarins và flavonoid.

    Tri Mẫu (Thân Rễ)

  • Trinh Nữ Hoàng Cung (Lá)


    Trinh nữ hoàng cung (Lá) (Folium Crini latifolii) là lá đã phơi hoặc sấy khô của cây Trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.), thuộc họ Thủy tiên (Amaryllidaceae). Trinh nữ hoàng cung phân bố chủ yếu ở các khu vực Nam Á và Đông Nam Á như Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, và Việt Nam. Tại Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Theo y học cổ truyền, Trinh nữ hoàng cung có vị đắng, tính mát, với công năng lợi niệu, nhuyễn kiên, tán kết, tiêu u, và giải độc. Lá thường được dùng chữa tiểu tiện bí dắt, u xơ tuyến tiền liệt, u vú, u tử cung, và đau dạ dày. Lá tươi và thân hành có thể dùng ngoài, hơ nóng xoa bóp vào chỗ sưng đau do thấp khớp hoặc sang chấn. Tác dụng dược lý của Trinh nữ hoàng cung bao gồm kháng viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa, giảm đau, điều hòa kinh nguyệt, chống ung thư, và bảo vệ gan. Thành phần hóa học chính là nhóm alkaloid, trong đó có crinamidin, được xác định qua sắc ký lớp mỏng.

    Trinh Nữ Hoàng Cung (Lá)

  • Tục Đoạn (Rễ)


    Tục đoạn (Radix Dipsaci) là rễ của cây Tục đoạn (Dipsacus japonicus Miq.), thuộc họ Dipsacaceae. Loài cây này phân bố chủ yếu ở các khu vực châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản. Tại Việt Nam, Tục đoạn mọc hoang nhiều ở các khu vực miền núi phía Bắc, đặc biệt tại các tỉnh vùng cao. Theo y học cổ truyền, Tục đoạn có vị đắng, ngọt, tính ôn, quy vào kinh can và thận, được biết đến với công năng bổ can thận, cường gân cốt, liền xương, và an thai. Tục đoạn được sử dụng để điều trị các bệnh như đau lưng, đau khớp gối, di tinh, động thai, rong kinh, băng huyết, đới hạ, và hỗ trợ chữa lành các vết thương do gãy xương hoặc đứt gân. Thành phần hóa học chính của Tục đoạn bao gồm alcaloid, tanin, tinh dầu, và saponin, trong đó hoạt chất biomarker theo Dược điển Hong Kong là asperosaponin VI (C47H76O18). Các hoạt chất này giúp Tục đoạn có khả năng tăng cường sức khỏe, giảm viêm, ngăn chặn quá trình oxy hóa, và hỗ trợ hiệu quả trong điều trị các bệnh lý liên quan đến xương khớp.

    Tục Đoạn (Rễ)

  • Tỳ Giải (Thân Rễ)


    Tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae septemloba) là thân rễ của cây Tỳ giải (Dioscorea septemloba Thunb), thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Tỳ giải phân bố chủ yếu ở Đông Nam Trung Quốc, hiện chưa thấy tại Việt Nam. Tuy nhiên, một số cây thuộc họ Hành (Alliaceae) và họ Củ nâu được khai thác với tên Tỳ giải, nhưng chưa xác định tên khoa học chính xác. Theo y học cổ truyền, Tỳ giải thường được sử dụng để chữa tiểu tiện đục mãn tính. Một bài thuốc kinh nghiệm gồm Tỳ giải, thạch xương bổ, ích trí nhân, ô dược, sinh cam thảo (các vị bằng nhau), sắc cùng 600ml nước và chia 3 lần uống trong ngày. Tác dụng dược lý của Tỳ giải bao gồm kháng khuẩn, kháng viêm, trị viêm khớp, đau cơ, viêm tuyến tiền liệt, và làm tan cục máu đông. Thành phần hóa học chính của Tỳ giải là dioxin (dioscin) và dioscorea sapotoxin.

    Tỳ Giải (Thân Rễ)

  • Uy Linh Tiên (Rễ Và Thân Rễ)


    Rễ và thân rẽ uy linh (Radix et rhizoma Clematidis) laf rễ và thân rễ đã phơi khô của cây Uy linh tiên (Clematis chinensis Osbeck) và một số loài khác cùng chi (Clematis haxapetala Pall., Clematis manshurica Rupr.), họ Hoàng liên (Ranunculaceae). Cây phân bố nhiều nơi tren thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản,... Tại Việt Nam, cây thường mọc trong khu rừng hoặc các vùng bụi rậm, tập trung tại các tỉnh Thừa Thiên-Huế, Ninh Bình và Cao Bằng. Theo tài liệu cổ, rễ và thân rễ uy linh có tính tân, hàm, ôn, vào kinh bàng quang. Dược liệu có tác dụng lợi sữa, thông tiểu tiện và giúp tiêu hoá, chữa nấc nghẹn, da đau tê rắn, chân tay yếu mỏi, co giật gân, co duỗi khó khăn, giải nhiệt và chữa các vấn đề về hệ tiêu hoá, bao gồm hóc xương cá, tiêu viêm. Thành phần hóa học chính có trong rễ và thân uy linh là Clematoside, ranunculin, protoanemonin, anemonin.

    Uy Linh Tiên (Rễ Và Thân Rễ)

  • Vàng Đắng (Thân)


    Caulis Coscinii fenestrati là thân đã phơi hoặc sấy khô của cây Vàng đắng (Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colerbr, Menispermum fenestratum Gaertn.), thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Cây phân bố chủ yếu ở khu vực Đông và Nam Á, trong đó có Việt Nam, tập trung ở vùng núi đông Nam Bộ, nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Thân vàng đắng thường dùng dưới dạng bột hoặc thuốc sắc, dùng trị sốt, sốt rét, lỵ, đau mắt, các bệnh về gan thận. Hiện nay, dược liệu này chủ yếu dùng để chiết berberin có tác dụng kháng khuẩn. Ngoài berberin, thân vàng đắng còn chứa các alkaloids khác như palmatin, jatrorizin,...

    Vàng Đắng (Thân)

  • Viễn Chí (Rễ)


    Rễ viễn chí(Radix Polygalae) là rễ khô của cây viễn chí lá nhỏ (Polygala tenuifolia Wild.) hoặc viễn chí Xiberi (Polygala sibirica L.), thuộc họ Viễn chí (Polygalaceace). Viễn chí phân bố chủ yếu ở khu vực Á Âu. Ở Việt Nam, viễn chí vẫn chưa được khai thác nhiều, mới ghi nhận loài Polygala siribica L. có công dụng làm thuốc. Theo tài liệu cổ, viễn chí đắng, tính ôn, vào 2 kinh tâm và thận, dùng tối đa 6g/ngày. Rễ viễn chí dùng trừ đờm, điều trị suy nhược thần kinh, hay quên, sợ hãi, ung thư sưng thũng. Rễ viễn chí chứa nhiều thành phần hoá học như saponin, terpen, oligosaccharides, xanthon với chất tiềm năng là tenuifolin.

    Viễn Chí (Rễ)

  • Vối ( Nụ Hoa )


    Vối (Flos Cleistocalysis operculatus) là nụ hoa đã phơi hay sấy nhẹ đến khô của cây Vối [Cleistocalyx operculatus (Roxb.) Merr. et Perry], thuộc họ Sim (Myrtaccae). Cây Vối có phạm vi phân bố tự nhiên rộng khắp khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á và được trồng phổ biến trên khắp các tỉnh ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm dân gian, lá và nụ vối có vị thơm, thường được dùng pha nước uống giúp dễ tiêu hóa, ngoài ra còn được sử dụng như chất sát trùng, rửa mụn nhọt, lở loét và ghẻ. Thành phần hóa học trong lá vối bao gồm ít tanin, các vết alcaloid thuộc nhóm indolic (gần gũi với caffein), cùng khoảng 4% tinh dầu bay hơi có mùi thơm.

    Vối ( Nụ Hoa )

  • Vối (Lá)


    Lá vôi (Folium Cleistocalysis operculati) là lá đã phơi hay sấy khô của cây Vối [Cleistocalyx operculatus (Roxb.) Merr. et Perry], họ Sim (Myrtaceae). Cây thường mọc hoang hoặc được trồng rộng rãi ở Việt Nam và các nước nhiệt đới châu Á. Theo tài liệu cổ, lá vối có vị đắng, chát, tính hàn, vào kinh tỳ, vị. Lá vối được sử dụng để cải thiện tiêu hóa, chữa đầy bụng, đau bụng, bệnh lỵ, và làm nước rửa vết thương, mụn nhọt, lở ngứa. Thành phần hóa học chính trong lá gồm rất ít tanin, vết alcaloid và khoảng 4% tinh dầu.

    Vối (Lá)

  • Vông Nem ( Lá)


    Vông nem (Folium Erythrinae variegatae) là lá đã phơi khô của cây Vông nem (Erythrina variegata L. hoặc Erythrina indica Lamk.), họ Đậu (Fabaceae). Vông nem phân bố ở nhiều nơi trên thế giới, mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam. Theo y học cổ truyền, vông nem được sử dụng như một vị thuốc an thần, gây ngủ; chữa đau nhức lưng gối, tê liệt và các bệnh ngoài da như lở ngứa. Thành phần hóa học bao gồm alkaloid erythrine, saponin migarin (migarrhin).

    Vông Nem ( Lá)

  • Vừng Đen (Hạt)


    Vừng đen (Sesami Nigrum Semen) là hạt già phơi khô của cây Vừng đen (Sesanum indicum DC.), họ Vừng (Pedaliaceae). Cây có nguồn gốc từ khu vực Nam Á và được di thực đến nhiều nơi trên thế giới như châu Phi, châu Mỹ, Đông Nam Á và châu Âu. Tại Việt Nam, cây vừng đen được trồng phổ biến ở khắp các vùng miền trong cả nước. Theo y học cổ truyền, vừng đen được dùng chủ trị các bệnh như thiếu máu do huyết hư, tóc bạc sớm, xuất huyết do giảm tiểu cầu, táo bón và ít sữa sau sinh. Thành phần hóa học chính trong hạt vừng gồm dầu (40–55%), các hợp chất như pedaliin, planteose, sesamose, sesamin, sesamolin và sesamol. Dầu vừng chứa acid đặc (12–16%), acid loãng (75–80%), phần không xà phòng hóa (0,9–1,7%) và lexitin (khoảng 1%), cùng với các chất như sesamin (0,25–1%) và sesamol (0,1%).

    Vừng Đen (Hạt)

  • Xà Sàng (Quả)


    Xà sàng (Fructus Cnidii) là quả chín đã phơi hay sấy khô của cây Xà sàng (Cnidium monnieri L.), thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Cây xà sàng phân bố chủ yếu ở Châu Á và mọc hoang nhiều ở những vùng đất trống tại miền Bắc và Trung Bộ nước ta. Dược liệu này được nghiên cứu với các tác dụng dược lý như tăng cường chức năng sinh dục, chống ngứa, chống dị ứng, kháng khuẩn, chống viêm, và hỗ trợ điều trị các bệnh viêm loét âm đạo. Thành phần hóa học chính của xà sàng bao gồm osthole và tinh dầu (1,3%) với các hợp chất chính như L-pinen, camphen và bocnylisovalerianat.

    Xà Sàng (Quả)

  • Xích Đồng Nam (Rễ)


    Xích đồng nam (Radix Clerodendri japonici) là rễ khô của cây Xích đồng nam (Clerodendrum japonicum (Thunb.) Sweet.), thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và Việt Nam. Trong y học cổ truyền, dược liệu Xích đồng nam được sử dụng để giải độc, khu phong, tiêu viêm, điều trị thấp khớp, đau lưng, viêm mật và vàng da. Thành phần hóa học của xích đồng nam bao gồm steroid và dẫn xuất, lipid prenol, acid carboxylic và dẫn xuất, acid cinnamic và dẫn xuất, flavonoid.

    Xích Đồng Nam (Rễ)

  • Xích Thược (Rễ)


    Xích thược (Radix Paeoniae, họ Hoàng Liên - Paeoniaceae) là rễ khô của cây Thược dược (Paeonia lactiflora Pall.) hoặc Xuyên xích thược (Paeonia veitchii Lynch), phân bố ở Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á. Trong y học cổ truyền, xích thược được dùng để thanh nhiệt, hoạt huyết, giảm đau và chữa các bệnh như kinh bế, đau bụng kinh, viêm sưng. Thành phần chính là paeoniflorin (biomarker), tannin, đường và acid hữu cơ. Xích thược có tác dụng chống viêm, chống khối u, chống oxy hóa, bảo vệ tim mạch và gan.

    Xích Thược (Rễ)

  • Xương Bồ


    Xương bồ (Rhizoma Acori) là thân rễ đã phơi khô, hoặc sấy khô của cây Thạch xương bồ lá to (Acorus gramineus Soland. var. macrospadiceus Yamamoto Contr) và cây Thủy Xương bồ (Acorus calamus L. var. angustatus Bess.), họ Ráy (Araceae). Loài cây này mọc hoang tại các vùng núi miền Bắc và Trung Việt Nam, thường tìm thấy ở những nơi khe đá, khe suối, và chỗ mát. Theo tài liệu cổ, xương bồ có tính tân, ôn, vào các kinh tâm, can, tỳ. Dược liệu dùng trị bệnh phong điên gian, đờm vít tắc, hôn mê, hay quên, mộng nhiều, viêm phế quản, tai điếc, đi lỵ đau bụng, dùng ngoài, trị mụn nhọt, ghé lở chảy nước. Thành phần hóa học của xương bồ chủ yếu bao gồm tinh dầu với các hợp chất như asaron, acorenon, và iso-acorenon.

    Xương Bồ

  • Xuyên Khung (Thân Rễ)


    Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii) là thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Xuyên khung (Ligusticum wallichii Franch.), Họ Hoa tán(Apiaceae). Cây phân bố ở các vùng núi cao như Sapa, Sìn Hồ (Việt Nam). Thân rễ xuyên khung có tính tân, ôn, vào các kinh can, đờm, tâm bào. Cây được dùng để điều kinh, nhức đầu, hoa mắt, cảm mạo phong hàn, phong thấp nhức mòi, ngực bụng đau tức, nhọt độc sưng đau, giãn mạch, hạ huyết áp, kích thích tuần hoàn và kháng vi khuẩn. Thành phần chính của thân rễ xuyên khung gồm có alkaloid, axit ferulic và lacton.

    Xuyên Khung (Thân Rễ)

  • Xuyên Tâm Liên


    Xuyên tâm liên (Herba Andrographii) là bộ phận trên mặt đất đã phơi hay sấy khô của cây Xuyên tâm liên [Andrographis paniculata (Burm.f.) Nees], họ Ô rô (Acanthaceae). Cây phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan. Xuyên tâm liên có vị rất đắng, tính hàn, vào kinh phế, can, tỳ. Cây được dùng để thanh nhiệt, giải độc, giảm đau và điều trị các bệnh như viêm họng, viêm phế quản, sốt, cảm cúm, viêm gan và các vấn đề tiêu hóa. Cây có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn, tăng cường miễn dịch, bảo vệ gan, chống ung thư, hạ huyết áp và điều hòa tiểu đường. Thành phần chính bao gồm andrographolide, flavonoids, alkaloids và polysaccharides.

    Xuyên Tâm Liên

  • Xuyên Tiêu (Quả)


    Quả xuyên tiêu (Fructus Zanthoxyli) là quả đã phơi khô của nhiều loài Xuyên tiêu (Zanhoxylum sp.), thuộc họ Cam(Rutaceae). Cây mọc hoang ở các tỉnh miền Bắc và Trung Việt Nam. Theo tài liệu cổ, quả xuyên tiêu có tính tân, ôn, vào ba kinh: phế, tỳ, thận. Dược liệu dùng trị đau bụng lạnh, nôn mửa, ỉa chảy, phong thấp, đau răng, đau bụng giun. Các thành phần hóa học chính của quả xuyên tiêu bao gồm tinh dầu (geraniol, limonene, cumic alcohol), alkaloids và flavonoids.

    Xuyên Tiêu (Quả)

Bình luận